Nhị Luật – Chương 4
STT | Cựu Ước | Tân Ước |
---|---|---|
01 | Khởi Nguyên | Ma-thi-ơ |
02 | Xuất Hành | Mác |
03 | Lê-vi | Lu-ca |
04 | Dân Số | Giăng |
05 | Nhị Luật | Công Vụ |
06 | Giô-suê | Rô-ma |
07 | Thẩm Phán | I Cô-rinh-tô |
08 | Ru-tơ | II Cô-rinh-tô |
09 | I Sa-mu-ên | Ga-la-ti |
10 | II Sa-mu-ên | Ê-phê-sô |
11 | I Các Vua | Phi-líp |
12 | II Các Vua | Cô-lô-se |
13 | I Sử Ký | I Tê-sa-lô-ni-ca |
14 | II Sử Ký | II Tê-sa-lô-ni-ca |
15 | Ê-xơ-ra | I Ti-mô-thê |
16 | Nê-hê-mi | II Ti-mô-thê |
17 | Ê-xơ-tê | Tít |
18 | Gióp | Phi-lê-môn |
19 | Thi Ca | Hê-bơ-rơ |
20 | Châm Ngôn | Gia-cơ |
21 | Truyền Đạo | I Phi-e-rơ |
22 | Nhã Ca | II Phi-e-rơ |
23 | Ê-sai | I Giăng |
24 | Giê-rê-mi | II Giăng |
25 | Ca Thương | III Giăng |
26 | Ê-xê-chi-ên | Giu-đe |
27 | Đa-ni-ên | Mặc Khải |
28 | Ô-sê | |
29 | Giô-ên | |
30 | A-mốt | |
31 | Áp-đia | |
32 | Giô-na | |
33 | Mi-chê | |
34 | Na-hum | |
35 | Ha-ba-cúc | |
36 | Sô-phô-ni | |
37 | A-ghê | |
38 | Xa-cha-ri | |
39 | Ma-la-chi |
1 “Và bây giờ, Is-ra-ên, hãy nghe các quy định và các phán quyết mà tôi dạy anh em thực hiện để anh em được sống, và tiến vào và thừa hưởng xứ mà YHWH Đức Chúa Trời của các tổ phụ anh em ban cho anh em.
2 Đừng thêm vào lời mà tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt khỏi nó, để vâng giữ các mạng lệnh của YHWH Đức Chúa Trời anh em mà tôi truyền cho anh em.
3 Mắt anh em đã thấy điều YHWH đã làm vì Ba-anh Phê-ô, vì mọi kẻ nào đi theo Ba-anh Phê-ô thì YHWH Đức Chúa Trời anh em diệt trừ nó khỏi giữa anh em.
4 Còn anh em là những người bám lấy YHWH Đức Chúa Trời mình – tất cả anh em – thì ngày nay còn sống.
5 Kìa: tôi đã dạy cho anh em các quy định và các phán quyết như những điều YHWH Đức Chúa Trời tôi đã truyền cho tôi, để thực hiện như vậy trong xứ mà anh em đang tiến vào đó để chiếm hữu nó.
6 Và anh em hãy tuân giữ và hãy thực hiện: ấy là sự khôn ngoan của anh em và sự hiểu biết của anh em trước mắt các dân tộc, là những kẻ sẽ nghe được mọi quy định này và nói: ‘Chỉ có quốc gia vĩ đại này là một dân tộc khôn ngoan và hiểu biết!’
7 Vì có quốc gia vĩ đại nào có cho mình một vị Thần ở gần mình như YHWH Đức Chúa Trời chúng ta trong mọi lúc chúng ta kêu cầu Ngài không?
8 Và có quốc gia vĩ đại nào có cho mình các quy định và các phán quyết công chính như toàn bộ luật pháp này mà tôi đặt trước mặt anh em hôm nay không?
9 Nhưng hãy cẩn trọng lấy mình và canh giữ linh hồn mình cẩn mật, kẻo anh em quên những điều mà mắt anh em đã thấy và kẻo chúng lui khỏi tâm anh em, tất cả các ngày cuộc đời anh em, và hãy bày tỏ chúng cho con cái anh em và cho con cái của con cái anh em.
10 Ngày mà anh em đứng trước mặt YHWH Đức Chúa Trời anh em tại Hô-rếp, khi YHWH phán với tôi: ‘Hãy tập trung dân chúng lại Ta, và Ta sẽ cho họ nghe những lời của Ta mà học tập kính sợ Ta tất cả những ngày họ còn sống trên đất, và họ sẽ dạy cho con cháu mình.’
11 Và anh em đến gần và đứng dưới núi, còn núi thì bốc cháy trong lửa cho đến giữa (*) trời, sự tối tăm, mây, và bóng tối mù mịt (**).
(*) Từ gốc là “tâm”.
(**) Xem chú thích [02] Xuất Hành 20:21.
12 Và YHWH đã phán với anh em từ giữa quầng lửa: anh em đã nghe tiếng của lời Ngài nhưng không có hình dạng nào cho anh em trông thấy, ngoại trừ tiếng nói.
13 Và Ngài công bố cho anh em giao ước Ngài mà Ngài đã truyền cho anh em thực hiện, là Mười Lời (*), và viết chúng lên hai bảng đá.
(*) Hay Thập Ngôn, tức Mười Mạng Lệnh.
14 Và YHWH đã truyền cho tôi chính lúc ấy: dạy cho anh em các quy định và các phán quyết để anh em thực hiện chúng trong xứ mà anh em sẽ đi qua đó để chiếm hữu nó.”
15 “Và hãy đặc biệt cẩn trọng linh hồn mình vì anh em không thấy bất cứ hình dạng nào trong ngày YHWH phán với anh em tại Hô-rếp từ giữa quầng lửa,
16 kẻo anh em đồi bại mà làm cho mình hình chạm tượng trưng bất cứ hình thù gì, kiểu mẫu nam hay nữ,
17 kiểu mẫu bất cứ thú vật nào trên đất, kiểu mẫu bất cứ chim chóc có cánh nào bay trên trời,
18 kiểu mẫu bất cứ động vật nào trong đất, kiểu mẫu bất cứ cá nào trong nước dưới mặt đất;
19 và kẻo anh em ngước mắt mình lên trời và thấy mặt trời, và mặt trăng, và các ngôi sao, tất cả các thiên thể, và anh em bị lôi cuốn và sấp mình xuống với chúng và phụng thờ chúng, khi mà YHWH Đức Chúa Trời anh em đã phân chia chúng cho mọi dân tộc toàn thiên hạ.
20 Còn anh em, YHWH đã lấy và đem anh em ra khỏi lò luyện sắt, khỏi Ai Cập, để trở nên một dân sản nghiệp thuộc về Ngài như ngày nay.
21 Và YHWH nổi giận với tôi vì việc của anh em và thề rằng tôi sẽ không vượt qua được Giô-đanh, và rằng tôi sẽ không vào được xứ tốt lành mà YHWH Đức Chúa Trời anh em ban cho anh em làm sản nghiệp,
22 mà tôi sẽ chết trong xứ này. Tôi sẽ không vượt qua được Giô-đanh, còn anh em sẽ vượt qua và thừa hưởng xứ tốt lành này.
23 Hãy cẩn trọng lấy mình, là điều YHWH Đức Chúa Trời anh em đã truyền cho anh em, kẻo anh em quên giao ước của YHWH Đức Chúa Trời anh em mà Ngài đã lập với anh em và làm cho mình hình chạm hình dạng bất cứ thứ gì.
24 Vì YHWH Đức Chúa Trời anh em là một quầng lửa thiêu nuốt; Ngài là Đức Chúa Trời ghen tuông (*).
(*) Xem chú thích [02] Xuất Hành 20:5.
25 Khi anh em sinh con cái và con cái của con cái và an dưỡng trong xứ, và anh em đồi bại mà làm hình chạm hình dạng bất cứ thứ gì, và làm điều ác trong mắt YHWH Đức Chúa Trời mình để chọc tức Ngài,
26 thì tôi kêu trời và đất chứng giám cho các người rằng các người sẽ phải nhanh chóng diệt vong khỏi xứ mà các người vượt qua Giô-đanh vào đó để chiếm hữu nó! Các người sẽ chẳng kéo dài những ngày trên nó được đâu, mà chắc chắn sẽ bị tận diệt!
27 Và YHWH sẽ phân tán các người giữa các dân, và các người sẽ còn lại một ít người giữa các dân mà YHWH sẽ dắt các người đến đó.
28 Và các người sẽ phụng thờ ở đó các thần là công việc của tay người, là gỗ và đá, là những thứ chẳng thấy, cũng chẳng nghe, cũng chẳng ăn, cũng chẳng ngửi!
29 Nhưng từ đó mà anh em tìm kiếm YHWH Đức Chúa Trời anh em thì anh em sẽ tìm thấy, khi anh em tìm cầu Ngài với cả trái tim mình và với cả linh hồn mình.
30 Trong cảnh gian truân của anh em, và tất cả những điều này đã tìm được anh em, trong những ngày sau cuối, và anh em trở lại với YHWH Đức Chúa Trời anh em và nghe tiếng Ngài,
31 thì vì YHWH Đức Chúa Trời anh em là Đức Chúa Trời thương xót, Ngài sẽ chẳng ruồng bỏ anh em, cũng chẳng tiêu diệt anh em, cũng chẳng quên giao ước của các tổ phụ anh em mà Ngài đã thề với họ đâu.”
32 “Vì hãy hỏi về những ngày trước, là điều ở trước anh em, từ ngày mà Đức Chúa Trời tạo dựng loài người trên đất, và từ cuối trời này đến cuối trời kia, đã xảy ra việc gì như việc vĩ đại này, hay đã nghe việc gì giống như nó chưa?
33 Có dân tộc nào nghe tiếng Đức Chúa Trời phán từ giữa quầng lửa, như điều anh em đã nghe, và sống được không?
34 Hay Đức Chúa Trời có thử đi lấy cho Ngài một quốc gia từ giữa một quốc gia, bằng những thử thách, bằng những dấu lạ và bằng các phép màu, và bằng chiến tranh, và bằng bàn tay quyền năng, và bằng cánh tay dang rộng, và bằng những việc khủng khiếp đáng kinh sợ, như mọi điều YHWH Đức Chúa Trời anh em đã làm cho anh em tại Ai Cập trước mắt anh em không?
35 Anh em được bày tỏ để biết rằng YHWH chính là Đức Chúa Trời, chẳng còn ai nữa ngoài Ngài.
36 Từ trời, Ngài cho anh em nghe tiếng Ngài để dạy bảo anh em, và trên đất, Ngài bày tỏ cho anh em quầng lửa vĩ đại của Ngài, và anh em nghe lời Ngài từ giữa quầng lửa ấy.
37 Và nhân vì Ngài yêu thương các tổ phụ anh em và lựa chọn dòng dõi họ sau họ, và Ngài đem anh em trước mặt Ngài bằng quyền năng vĩ đại của Ngài ra khỏi Ai Cập,
38 trục xuất các quốc gia lớn hơn và mạnh hơn anh em khỏi trước mặt anh em, để đem anh em vào và ban cho anh em xứ của chúng làm sản nghiệp như ngày nay.
39 Nên hôm nay, hãy biết và nhớ lại vào tâm mình rằng: YHWH chính là Đức Chúa Trời, trên trời cao hay dưới đất thấp, chẳng còn ai nữa.
40 Và hãy tuân giữ các quy định Ngài và các mạng lệnh Ngài mà tôi truyền cho anh em hôm nay, là điều tốt đẹp cho anh em và cho con cháu anh em sau anh em, và để anh em kéo dài những ngày trên đất mà YHWH Đức Chúa Trời ban cho anh em mãi mãi.”
41 Sau đó, Mô-se để riêng ra ba thành qua bên này Giô-đanh về phía mặt trời mọc,
42 để kẻ sát nhân là người vô ý giết phải người lân cận mình – mà nó không thù ghét gì người ấy từ trước đến giờ – chạy trốn đến đó. Và nó sẽ chạy trốn đến một trong các thành này và được sống:
43 Bết-se trong đồng hoang, trong đất cao nguyên, dành cho người Ru-bên, và Ra-mốt trong Ga-la-át dành cho người Gát; và Gô-lan trong Ba-san dành cho người Ma-na-se.
44 Và đây là luật pháp mà Mô-se đặt trước mặt con cháu Is-ra-ên:
45 Đây là những lời chứng, và quy định, và phán quyết mà Mô-se nói với con cháu Is-ra-ên khi họ ra khỏi Ai Cập,
46 qua bên này Giô-đanh, trong thung lũng đối diện Bết Phê-ô, trong đất của Si-hôn, vua dân A-mô-rít, là kẻ cư ngụ tại Hết-bôn mà Mô-se và con cháu Is-ra-ên đã đánh hạ khi họ ra khỏi Ai Cập,
47 và họ chiếm hữu xứ của hắn và xứ của Óc, vua Ba-san: hai vua A-mô-rít qua bên này sông Giô-đanh, về phía mặt trời mọc,
48 từ A-rô-e, trên bờ sông Ạt-nôn và đến tận núi Si-yôn, chính là Hẹt-môn,
49 và toàn bộ bình nguyên qua bên này Giô-đanh về phía đông, và đến tận biển của bình nguyên dưới dốc núi Phích-ga.