Nhị Luật – Chương 5
STT | Cựu Ước | Tân Ước |
---|---|---|
01 | Khởi Nguyên | Ma-thi-ơ |
02 | Xuất Hành | Mác |
03 | Lê-vi | Lu-ca |
04 | Dân Số | Giăng |
05 | Nhị Luật | Công Vụ |
06 | Giô-suê | Rô-ma |
07 | Thẩm Phán | I Cô-rinh-tô |
08 | Ru-tơ | II Cô-rinh-tô |
09 | I Sa-mu-ên | Ga-la-ti |
10 | II Sa-mu-ên | Ê-phê-sô |
11 | I Các Vua | Phi-líp |
12 | II Các Vua | Cô-lô-se |
13 | I Sử Ký | I Tê-sa-lô-ni-ca |
14 | II Sử Ký | II Tê-sa-lô-ni-ca |
15 | Ê-xơ-ra | I Ti-mô-thê |
16 | Nê-hê-mi | II Ti-mô-thê |
17 | Ê-xơ-tê | Tít |
18 | Gióp | Phi-lê-môn |
19 | Thi Ca | Hê-bơ-rơ |
20 | Châm Ngôn | Gia-cơ |
21 | Truyền Đạo | I Phi-e-rơ |
22 | Nhã Ca | II Phi-e-rơ |
23 | Ê-sai | I Giăng |
24 | Giê-rê-mi | II Giăng |
25 | Ca Thương | III Giăng |
26 | Ê-xê-chi-ên | Giu-đe |
27 | Đa-ni-ên | Mặc Khải |
28 | Ô-sê | |
29 | Giô-ên | |
30 | A-mốt | |
31 | Áp-đia | |
32 | Giô-na | |
33 | Mi-chê | |
34 | Na-hum | |
35 | Ha-ba-cúc | |
36 | Sô-phô-ni | |
37 | A-ghê | |
38 | Xa-cha-ri | |
39 | Ma-la-chi |
1 Và Mô-se gọi toàn Is-ra-ên lại và nói với họ: “Hãy nghe, Is-ra-ên, những quy định và phán quyết mà hôm nay tôi nói vào tai anh em, và hãy học lấy chúng, và tuân giữ thực hiện chúng.
2 YHWH Đức Chúa Trời chúng ta đã lập giao ước với chúng ta tại Hô-rếp.
3 YHWH chẳng lập giao ước này với các tổ phụ chúng ta mà với chúng ta, chính là tất cả những người còn sống này, tại đây, hôm nay.
4 YHWH đã phán với anh em mặt đối mặt trên núi, từ giữa quầng lửa,
5 (tôi thì đứng giữa YHWH và giữa anh em chính lúc ấy, để truyền đạt cho anh em lời của YHWH, vì anh em sợ hãi trước quầng lửa, và chẳng lên núi), rằng:
6 ‘Ta là YHWH Đức Chúa Trời của con, Đấng đã đem con ra khỏi đất Ai Cập, khỏi nhà nô lệ.
7 Con chớ có thần nào khác trước mặt Ta.
8 Con chớ làm cho mình tượng chạm hay bất cứ hình dạng gì của những gì ở trên trời hay những gì ở dưới đất, hay những gì ở trong nước dưới đất.
9 Con chớ sấp mình xuống với chúng hay phụng thờ chúng. Vì Ta là YHWH Đức Chúa Trời của con, là Đức Chúa Trời ghen tuông (*), trừng trị sự đồi bại của cha ông lên con cháu, và lên thế hệ thứ ba và lên thế hệ thứ tư những kẻ ghét Ta.
(*) Xem chú thích [02] Xuất Hành 20:5.
10 Và tỏ lòng nhân từ cho hàng nghìn thế hệ những người yêu mến Ta và vâng giữ các mạng lệnh Ta.
11 Con chớ lấy danh YHWH Đức Chúa Trời của con cách vô ích (*), vì YHWH sẽ chẳng coi là vô tội kẻ lấy danh Ngài cách vô ích.
(*) Xem chú thích [02] Xuất Hành 20:7.
12 Hãy tuân giữ ngày Sa-bát, để tôn thánh nó, như điều YHWH Đức Chúa Trời của con đã truyền cho con.
13 Sáu ngày con hãy lao động và làm tất cả công việc mình.
14 Còn ngày thứ bảy là Sa-bát của YHWH Đức Chúa Trời của con, con không được làm bất cứ công việc gì: con, và con trai con, và con gái con, và tôi trai con, và tớ gái con, và bò của con, và lừa của con, và bất cứ thú vật nào của con, và khách lạ của con là người đang ở trong các cổng con, để cho tôi trai con và tớ gái con nghỉ ngơi như con.
15 Và hãy nhớ rằng: con đã làm nô lệ trong đất Ai Cập, và YHWH Đức Chúa Trời của con đã đem con ra khỏi đó bằng bàn tay quyền năng và bằng cánh tay dang rộng, vì thế YHWH Đức Chúa Trời của con đã truyền cho con giữ ngày Sa-bát.
16 Hãy hiếu kính cha mình và mẹ mình, như điều YHWH Đức Chúa Trời của con đã truyền bảo, để những ngày của con được kéo dài và để tốt cho con trên đất mà YHWH Đức Chúa Trời của con ban cho con.
17 Con chớ giết người.
18 Con cũng chớ ngoại tình.
19 Con cũng chớ trộm cắp.
20 Con cũng chớ làm chứng dối về người lân cận mình.
21 Con cũng chớ tham muốn vợ người lân cận mình, cũng chớ thèm khát nhà người lân cận mình, đồng ruộng của người, hay tôi trai của người, hay tớ gái của người, bò của người hay lừa của người, hay bất cứ thứ gì thuộc về người lân cận mình.’
22 Những lời này YHWH đã phán lớn tiếng với cả hội đoàn anh em trên núi từ giữa quầng lửa, mây và bóng tối mù mịt, và Ngài không thêm gì nữa, và viết chúng lên hai bảng đá và trao chúng cho tôi.
23 Và thế là khi anh em nghe tiếng từ giữa bóng tối, và núi thì đang thiêu đốt trong lửa, thì anh em đến gần tôi, tất cả những thủ lĩnh các bộ tộc anh em và các trưởng lão của anh em,
24 và nói: ‘Kìa, YHWH Đức Chúa Trời chúng tôi đã bày tỏ vinh quang Ngài và sự vĩ đại Ngài, và chúng tôi đã nghe tiếng Ngài từ giữa quầng lửa. Ngày nay chúng tôi đã thấy rằng Đức Chúa Trời phán với người, và người sống được.
25 Nhưng bây giờ tại sao chúng tôi phải chết? Vì quầng lửa khổng lồ này sẽ thiêu nuốt chúng tôi! Nếu chúng tôi tiếp tục nghe tiếng của YHWH Đức Chúa Trời chúng tôi thêm nữa thì chúng tôi chết mất!
26 Vì có ai, bất cứ xác thịt nào, là kẻ nghe tiếng Đức Chúa Trời Hằng Sống (*) phán từ giữa quầng lửa như chúng tôi và sống được không?
(*) Hay “Vị Thần Sống”. Đức Chúa Trời là một vị Thần sống hẳn hoi, tương phản hoàn toàn với tất cả các thần khác là những bức tượng, những vật thể không có sự sống, vô tri vô giác.
27 Ông hãy đến gần và nghe mọi điều YHWH Đức Chúa Trời chúng tôi phán, và ông hãy nói với chúng tôi mọi điều YHWH Đức Chúa Trời chúng tôi phán với ông, và chúng tôi sẽ nghe và thực hiện.’
28 Và YHWH nghe tiếng những lời của anh em khi anh em nói với tôi, và Ngài phán với tôi: ‘Ta đã nghe tiếng những lời của dân này mà họ nói với con. Tất cả những điều chúng nói là đúng đấy.
29 Giá như (*) mà chúng có cái tâm này của mình, để kính sợ Ta và vâng giữ mọi mạng lệnh Ta hàng ngày, để tốt cho chúng và cho con cháu chúng mãi mãi!
(*) Nguyên tác là “Ai sẽ ban cho?”, đây là một cụm từ cảm thán cổ của tiếng Hê-bơ-rơ, tương đương với “giá như” hay “ước gì”, khá là giống với cách nói “lấy đâu ra/đào đâu ra” của người Việt.
30 Hãy đi nói với chúng: ‘Anh em hãy trở về lều mình.’
31 Còn con hãy ở lại đây với Ta, và Ta sẽ phán cho con mọi mạng lệnh, quy định và phán quyết mà con sẽ dạy cho chúng, và chúng sẽ thực thi trong xứ mà Ta ban cho chúng để chiếm hữu nó.’
32 Và, anh em hãy tuân giữ, thực hiện như điều YHWH Đức Chúa Trời anh em đã truyền cho anh em, chớ quay qua phải hay trái.
33 Anh em hãy bước đi trên mọi đường lối mà YHWH Đức Chúa Trời anh em đã truyền cho anh em, để anh em được sống và tốt cho anh em, và anh em sẽ kéo dài những ngày trên đất mà anh em sẽ chiếm hữu.”