Lê-vi – Chương 11
STT | Cựu Ước | Tân Ước |
---|---|---|
01 | Khởi Nguyên | Ma-thi-ơ |
02 | Xuất Hành | Mác |
03 | Lê-vi | Lu-ca |
04 | Dân Số | Giăng |
05 | Nhị Luật | Công Vụ |
06 | Giô-suê | Rô-ma |
07 | Thẩm Phán | I Cô-rinh-tô |
08 | Ru-tơ | II Cô-rinh-tô |
09 | I Sa-mu-ên | Ga-la-ti |
10 | II Sa-mu-ên | Ê-phê-sô |
11 | I Các Vua | Phi-líp |
12 | II Các Vua | Cô-lô-se |
13 | I Sử Ký | I Tê-sa-lô-ni-ca |
14 | II Sử Ký | II Tê-sa-lô-ni-ca |
15 | Ê-xơ-ra | I Ti-mô-thê |
16 | Nê-hê-mi | II Ti-mô-thê |
17 | Ê-xơ-tê | Tít |
18 | Gióp | Phi-lê-môn |
19 | Thi Ca | Hê-bơ-rơ |
20 | Châm Ngôn | Gia-cơ |
21 | Truyền Đạo | I Phi-e-rơ |
22 | Nhã Ca | II Phi-e-rơ |
23 | Ê-sai | I Giăng |
24 | Giê-rê-mi | II Giăng |
25 | Ca Thương | III Giăng |
26 | Ê-xê-chi-ên | Giu-đe |
27 | Đa-ni-ên | Mặc Khải |
28 | Ô-sê | |
29 | Giô-ên | |
30 | A-mốt | |
31 | Áp-đia | |
32 | Giô-na | |
33 | Mi-chê | |
34 | Na-hum | |
35 | Ha-ba-cúc | |
36 | Sô-phô-ni | |
37 | A-ghê | |
38 | Xa-cha-ri | |
39 | Ma-la-chi |
1 Và YHWH phán với Mô-se và với A-rôn, bảo với họ:
2 “Hãy nói với con cháu Is-ra-ên rằng: ‘Đây là loài vật mà các con hãy ăn từ mọi loài thú trên đất:
3 mọi loài nào móng guốc chẽ và chẻ kẽ móng guốc, nhai lại trong các loài thú, thì các con hẵng ăn nó (*).
(*) Thịt của những con thú có cả hai đặc điểm “có móng guốc” và “nhai lại”, sạch hơn nhiều so với những con còn lại. Móng guốc giúp bảo vệ con thú khỏi vị trí dễ bị tổn thương, nhiễm trùng và ký sinh nhất trên cơ thể: bàn chân. Còn dạ dày nhai lại hoạt động như một cái máy giặt bốn ngăn, sau khi nó xử lý cỏ, lá mà con vật vừa nhai nuốt, thức ăn sẽ được đẩy lên một lần nữa để nhai nát trước khi con vật nuốt chúng xuống trở lại lần nữa.
4 Tuy nhiên, các con chớ ăn những con này từ các con nhai lại hoặc từ các con móng guốc chẽ: lạc đà, vì nó nhai lại nhưng nó không móng guốc chẽ, nó là ô uế cho các con;
5 và con chồn núi, vì nó nhai lại nhưng nó không móng guốc chẽ, nó là ô uế cho các con;
6 và con thỏ rừng, vì nó nhai lại nhưng nó không móng guốc chẽ, nó là ô uế cho các con;
7 và con lợn, vì nó móng guốc chẽ và chẻ kẽ móng guốc, nhưng nó không nhai lại, nó là ô uế cho các con.
8 Các con chớ ăn từ thịt của chúng, và chớ động vào xác của chúng. Chúng là những loài ô uế cho các con (*).
(*) Phần lớn những con được coi là ô uế là những sinh vật được Đấng Tạo Hóa thiết kế để làm nhiệm vụ ăn dọn rác. Trong nhóm thú, chúng là những con như chó, lợn, chuột, chồn… và thịt của những con ăn rác này thì luôn chứa nhiều cặn bã, ký sinh trùng và các chất độc hại hơn nhiều so với những con như bò, dê, cừu, hươu, nai, hoẵng vừa ăn cỏ nhai lại vừa có móng guốc (xem chú thích [03] Lê-vi 11:3).
9 Các con hãy ăn những loài này từ tất cả những loài ở trong nước: tất cả những loài nào, mà nó có vây và vảy, trong nước, trong biển và trong sông suối, thì các con hẵng ăn chúng (*).
(*) Không có loài cá có vảy nào rơi vào nhóm những con dọn rác cả. Hơn nữa, lớp vảy bao bọc giúp bảo vệ con cá như một lớp áo giáp, giảm thiểu đáng kể khả năng thịt của nó bị nhiễm ký sinh trùng và các chất độc hại.
10 Còn mọi loài nào, mà nó không có vây và vảy, trong biển và trong sông suối, từ mọi loài động vật dưới nước, và từ mọi sinh linh trong nước, thì chúng đều là thứ đáng ghê tởm với các con,
11 và chúng sẽ là thứ đáng ghê tởm với các con. Từ thịt của chúng các con chớ ăn, và xác của chúng các con hãy ghê tởm.
12 Tất cả những loài nào trong nước mà nó không có vây và vảy, thì nó là thứ đáng ghê tởm với các con (*).
(*) Rươi và các loài giun nước ăn tạp dọn vệ sinh dưới đáy; cua, tôm ăn xác cá chết; ngao, sò, ốc, hến là những cái máy lọc nước tự nhiên, ăn phân cá thải ra; cá da trơn lúc nhúc trong bùn, làm công việc tương tự… Những thủy sản nào không có vây VÀ vảy, thì thường là những con ăn dọn rác tự nhiên trong môi trường nước. Thịt của chúng chứa nhiều kim loại nặng và các chất độc hại, hay gây dị ứng và rối loạn tiêu hóa. Ngay cả những loài được thế gian coi là có nhiều can-xi “tốt cho sức khỏe” như tôm (70mg/100g tôm chín), thì nồng độ can-xi ấy cũng chẳng là gì so với những thực phẩm thanh sạch, như rong biển chẳng hạn (150mg/100g rong biển tươi, 625mg/100g rong biển khô).
13 Và đây là những loài các con hãy ghê tởm từ các loài vật bay, chúng sẽ không được ăn, chúng là thứ đáng ghê tởm: kền kền, và diều hâu, và đại bàng,
14 và ó, và diều theo các giống của nó,
15 mọi thứ quạ theo các giống của nó,
16 và con đà điểu, và cú mèo, và mòng biển, và chim ưng theo các giống của nó,
17 và chim mèo, và bồ nông, và cò lửa,
18 và chim cắc ké (*), và chim chàng bè, và cồng cộc,
(*) Dường như là một loài chim nào đó chuyên săn cắc ké để ăn thịt. Đây là cùng một từ với từ “cắc ké” ở câu 30.
19 và con cò, con diệc theo các giống của nó, và chim rẽ quạt, và dơi (*).
(*) Những con chim ăn được là những loài chim thuộc nhóm “lượm nhặt”, ăn cỏ và hạt, như gà, bồ câu, chim cút… Lưu ý là những loài chim chân có màng để bơi và săn mồi dưới nước thì không nằm trong nhóm “lượm nhặt” thanh sạch này.
20 Mọi loài vật bay bò bằng bốn chân (*), ấy là thứ đáng ghê tởm với các con.
(*) “Loài vật bay bò bằng bốn chân” chỉ các loài côn trùng, như gián và các loài bọ. Lưu ý, Kinh Thánh gọi các chân trước của một con côn trùng là “tay” của chúng chứ không gọi là chân, còn các chân sau mới gọi là “chân” (đối chiếu [20] Châm Ngôn 30:28 “Nhện tóm bắt bằng TAY”), thế nên các con côn trùng mới đang được mô tả là “bò bằng bốn chân” ở đây.
21 Tuy nhiên, các con hãy ăn những loài này trong mọi loài động vật bay đi bằng bốn chân, là loài mà nó có giò trên bàn chân mình, để nhảy bằng chúng trên đất.
22 Những loài này các con hãy ăn từ chúng: cào cào theo các giống của nó, và cào cào đầu nhẵn theo các giống của nó, và dế theo các giống của nó, và châu chấu theo các giống của nó (*).
(*) Tất cả các con côn trùng thanh sạch đều là những con ăn cỏ, ăn lá.
23 Còn mọi loài động vật bay, mà nó có bốn chân, thì nó là thứ đáng ghê tởm với các con (*).
(*) Chú ý là trong các loài côn trùng ô uế có cả cà cuống. Chúng có hình dạng như con gián, rất háu ăn, tấn công và hút máu nhiều động vật thủy sinh, và hoàn toàn không phải là loài ăn cỏ thanh sạch.
24 Và các con sẽ làm nhơ nhuốc mình vì những điều này: mọi người nào chạm vào xác của chúng sẽ bị ô uế cho đến chiều tối,
25 và mọi người nào mang xác của chúng sẽ giặt y phục mình và bị ô uế cho đến chiều tối:
26 từ mọi loài thú, mà nó móng guốc chẽ, nhưng nó không chẻ kẽ móng guốc và nó không nhai lại, thì chúng là những loài ô uế với các con; mọi người nào chạm vào chúng sẽ bị ô uế.
27 Và tất cả những loài đi bằng bàn chân trong tất cả các loài thú đi bằng bốn chân, chúng là những loài ô uế với các con. Mọi người nào chạm vào xác của chúng sẽ bị ô uế cho đến chiều tối,
28 và ai mang xác của chúng sẽ giặt y phục mình và bị ô uế cho đến chiều tối: chúng là những loài ô uế với các con.
29 Và đây là những loài ô uế với các con trong các động vật di động trên đất: chồn, và chuột, và thằn lằn lớn theo các giống của nó,
30 và tắc kè, và kỳ đà, và kỳ nhông, và cắc ké.
31 Đây là những loài ô uế với các con trong tất cả các loài động vật. Mọi người nào chạm vào chúng khi chúng đã chết, người ấy sẽ bị ô uế cho đến chiều tối.
32 Và bất cứ thứ gì, mà chúng rơi lên nó khi chúng đã chết, thứ ấy sẽ bị ô uế: từ bất cứ đồ gỗ hay vải hay da hay bao bố, bất cứ đồ gì mà sự gia công đã được thực hiện trên chúng, thì hãy đem cho vào trong nước, và nó sẽ bị ô uế cho đến chiều tối, và nó sẽ được thanh sạch.
33 Còn bất cứ bình đất nung nào, mà chúng rơi vào trong nó, thì mọi thứ ở trong nó sẽ bị ô uế, và các con hãy đập bể nó đi;
34 bất cứ thức ăn nào đang ăn được, mà nước ấy (*) đổ lên nó, thì nó sẽ bị ô uế, và bất cứ thức uống nào đang uống được trong bất cứ bình gì sẽ bị ô uế.
(*) Chỉ nước đựng trong các bình đất nung vừa bị xác chết của các loài ô uế rơi vào.
35 Và bất cứ gì, mà bị xác của chúng rơi vào nó, thì nó sẽ bị ô uế: lò hay bếp đều sẽ bị đập đổ. Chúng là đồ ô uế rồi, và chúng sẽ là đồ ô uế với các con.
36 Tuy nhiên, suối và hầm, hồ chứa nước sẽ là thanh sạch, còn thứ gì chạm vào xác của chúng sẽ bị ô uế.
37 Và khi xác của chúng rơi trên bất cứ hạt giống gieo trồng nào sẽ được gieo trồng, thì nó sẽ là thanh sạch.
38 Còn khi nước đã tưới lên hạt giống, và xác của chúng rơi lên nó, thì nó sẽ là ô uế với các con.
39 Và khi một con thú, mà nó với các con là đồ ăn, chết, thì ai chạm vào xác nó sẽ bị ô uế cho đến chiều tối;
40 và ai ăn từ xác nó sẽ giặt y phục mình và bị ô uế cho đến chiều tối; và ai khiêng xác nó sẽ giặt y phục mình và bị ô uế cho đến chiều tối.
41 Và bất cứ loài động vật nào bò (*) trên mặt đất đều đáng ghê tởm, nó sẽ không được ăn:
(*) Chỉ về rắn và các loài sâu bọ, gián, giun, rết…
42 tất cả các loài bò bằng thân, và tất cả các loài bò bằng bốn chân cho đến tất cả các loài nhiều chân, đến mọi loài bò trườn trên đất, thì các con chớ ăn chúng, vì chúng là thứ đáng ghê tởm.
43 Không được làm cho linh hồn các con thành ra đáng ghê tởm bằng bất cứ loài động vật nào bò trườn, và chớ làm nhơ nhuốc mình bởi chúng và bị ô uế bởi chúng.
44 Vì Ta là YHWH Đức Chúa Trời các con, và các con hãy thánh hóa mình và trở nên những người thánh, vì Ta là thánh, và chớ làm nhơ nhuốc linh hồn mình bởi bất cứ loài động vật nào bò trên đất.
45 Vì Ta là YHWH, Đấng đã đem các con ra khỏi đất Ai Cập để làm Đức Chúa Trời cho các con; và các con hãy trở nên những người thánh, vì Ta là thánh.
46 Đây là luật pháp về thú vật, và các loài vật bay, và mọi sinh linh di động trong nước, và mọi sinh vật bò trên đất,
47 để phân biệt giữa con ô uế và giữa con thanh sạch, và giữa loài vật ăn được và giữa loài vật không ăn được. (*)’”
(*) Trái với nhiều người nhầm tưởng, việc không ăn những con ô uế được thiết kế để ăn dọn rác không phải là một giáo lễ chỉ tồn tại trong một thời điểm nhất định, mà là một định luật khoa học bất biến phục vụ sức khỏe con người, tương tự như việc đừng ăn mì gói trong bồn cầu vậy (đáng ghê tởm). Người Do Thái suốt nhiều nghìn năm nay đến tận giờ vẫn tuân giữ định luật sức khỏe này, và có lẽ họ nổi danh trên thế giới là thông minh hơn các dân tộc còn lại một phần đáng kể chính nhờ sức khỏe được gìn giữ tích lũy qua nhiều thế hệ bởi vâng phục các quy luật ăn uống thanh sạch, tránh máu và mỡ động vật, tránh ăn các loài dọn rác nêu trong [03] Lê-vi 11 này.