I Các Vua – Chương 10
STT | Cựu Ước | Tân Ước |
---|---|---|
01 | Khởi Nguyên | Ma-thi-ơ |
02 | Xuất Hành | Mác |
03 | Lê-vi | Lu-ca |
04 | Dân Số | Giăng |
05 | Nhị Luật | Công Vụ |
06 | Giô-suê | Rô-ma |
07 | Thẩm Phán | I Cô-rinh-tô |
08 | Ru-tơ | II Cô-rinh-tô |
09 | I Sa-mu-ên | Ga-la-ti |
10 | II Sa-mu-ên | Ê-phê-sô |
11 | I Các Vua | Phi-líp |
12 | II Các Vua | Cô-lô-se |
13 | I Sử Ký | I Tê-sa-lô-ni-ca |
14 | II Sử Ký | II Tê-sa-lô-ni-ca |
15 | Ê-xơ-ra | I Ti-mô-thê |
16 | Nê-hê-mi | II Ti-mô-thê |
17 | Ê-xơ-tê | Tít |
18 | Gióp | Phi-lê-môn |
19 | Thi Ca | Hê-bơ-rơ |
20 | Châm Ngôn | Gia-cơ |
21 | Truyền Đạo | I Phi-e-rơ |
22 | Nhã Ca | II Phi-e-rơ |
23 | Ê-sai | I Giăng |
24 | Giê-rê-mi | II Giăng |
25 | Ca Thương | III Giăng |
26 | Ê-xê-chi-ên | Giu-đe |
27 | Đa-ni-ên | Mặc Khải |
28 | Ô-sê | |
29 | Giô-ên | |
30 | A-mốt | |
31 | Áp-đia | |
32 | Giô-na | |
33 | Mi-chê | |
34 | Na-hum | |
35 | Ha-ba-cúc | |
36 | Sô-phô-ni | |
37 | A-ghê | |
38 | Xa-cha-ri | |
39 | Ma-la-chi |
1 Và nữ hoàng của Sê-ba nghe được danh tiếng Sa-lô-môn nhờ danh của YHWH, và nàng đến để thử ông bằng các câu đố.
2 Và nàng đến Giê-ru-sa-lem với một đội quân (*) rất hùng hậu, các lạc đà chở hương liệu và rất nhiều vàng và đá quý. Và nàng đến với Sa-lô-môn và nói với ông mọi điều đang ở trong tâm mình.
(*) Có lẽ là cách nói ví von chỉ đoàn tùy tùng quá đông đảo.
3 Và Sa-lô-môn bảo cho nàng mọi vấn đề của nàng, chẳng có vấn đề nào là bị che khuất khỏi vua, mà ông không bảo được cho nàng.
4 Và nữ hoàng của Sê-ba thấy tất cả sự khôn ngoan của Sa-lô-môn và nhà mà ông đã xây,
5 và thức ăn bàn ông, và chỗ ngồi các đầy tớ ông, và chức vụ những người phục vụ của ông và y phục của họ, và các hầu rượu của ông, và tế lễ thiêu của ông mà ông dâng ở Nhà của YHWH, thì trong nàng chẳng còn linh khí nữa (*).
(*) Ngôn ngữ tiếng Việt còn gọi hiện tượng này là “mất vía”, nhưng dịch giả để nguyên theo ngữ nghĩa Hê-bơ-rơ.
6 Và nàng nói với vua: “Lời mà tôi đã nghe ở xứ mình về những việc của ông và về sự khôn ngoan của ông quả là sự thật!
7 Nhưng tôi đã chẳng tin những lời ấy cho đến khi tôi đến và mắt tôi chứng kiến. Và kìa, phân nửa chưa được bảo cho tôi! Ông đã thêm sự khôn ngoan và tốt lành vào lời đồn mà tôi đã nghe.
8 Phước thay người của ông! Phước thay các đầy tớ này của ông, đang hằng đứng trước mặt ông mà nghe sự khôn ngoan của ông!
9 Chúc tụng YHWH Đức Chúa Trời ông, Đấng đã vui thích nơi ông để cho ông lên ngai Is-ra-ên! Bởi tình yêu thương vĩnh cửu của YHWH với Is-ra-ên mà Ngài đã đặt để ông làm vua để thực thi sự phán xét và công lý.”
10 Và nàng tặng cho vua một trăm hai mươi ta-lâng vàng, và rất nhiều hương liệu và đá quý. Nhiều như chính hương liệu ấy, mà nữ hoàng của Sê-ba đã tặng cho vua Sa-lô-môn, thì chẳng còn đến thêm nữa.
11 Và đoàn tàu chở vàng của Hi-ram từ Ô-phia cũng đem từ Ô-phia rất nhiều gỗ bạch đàn và đá quý.
12 Và vua làm lan can gỗ bạch đàn cho Nhà của YHWH và cho nhà của vua, và đàn hạc, và đàn lia cho các ca sĩ. Gỗ bạch đàn chưa từng đến cũng chẳng còn thấy được như vậy cho đến ngày nay.
13 Và vua Sa-lô-môn tặng cho nữ hoàng của Sê-ba mọi mong muốn nàng mà nàng xin, ngoài những thứ ông đã tặng cho nàng, theo tay vua Sa-lô-môn (*). Và nàng quay đi và đi về xứ mình, nàng và các đầy tớ nàng.
(*) Tức là trong khả năng có gì thì tặng, theo lòng hào phóng của vua Sa-lô-môn.
14 Và cân nặng số vàng đến với Sa-lô-môn trong một năm là sáu trăm sáu mươi sáu ta-lâng vàng,
15 ngoài từ các nhà thám hiểm, và hàng hóa của các thương gia, và tất cả các vua Ả-rập, và các tổng đốc của xứ.
16 Và vua Sa-lô-môn làm hai trăm cái khiên vàng rèn, sáu trăm vàng (*) lên một khiên,
(*) Có lẽ đơn vị ở đây là shê-kên. Vậy thì một khiên này khoảng 6,84 kilôgam vàng.
17 và ba trăm cái thuẫn vàng rèn, ba ma-nê (*) vàng lên một thuẫn, và vua để chúng ở Nhà Rừng Lê-ba-non.
(*) Một ma-nê là 60 shê-kên hay 1/50 ta-lâng đối với bac, và 100 shê-kên hay 1/100 ta-lâng đối với vàng. Ở đây một thuẫn vàng sẽ là 300 shê-kên, là khoảng 3,42 kilôgam.
18 Vua cũng làm một cái ngai lớn bằng ngà, và bọc nó bằng vàng tinh luyện.
19 Ngai có sáu bậc. Phần trên ngai phía sau nó hình tròn, và các chỗ để tay ở bên này và bên kia chỗ ngồi, và hai con sư tử đứng bên các chỗ để tay,
20 và mười hai con sư tử đứng đó trên sáu bậc, bên này và bên kia. Thứ như vậy đã chẳng hề được làm cho bất cứ vương quốc nào.
21 Và tất cả các vật dụng để uống của vua Sa-lô-môn đều là vàng, tất cả các vật dụng của Nhà Rừng Lê-ba-non cũng đều là vàng ròng, không có bạc: trong những ngày của Sa-lô-môn, nó chẳng được kể là gì cả.
22 Vì vua có trên biển đoàn tàu Ta-rê-si với đoàn tàu của Hi-ram. Ba năm một lần, đoàn tàu Ta-rê-si đến, chở vàng, và bạc, ngà voi, và khỉ, và công.
23 Và, vua Sa-lô-môn lớn hơn tất cả các vua trái đất về sự giàu có và về sự khôn ngoan.
24 Và cả trái đất đều tìm kiếm mặt Sa-lô-môn để nghe sự khôn ngoan của ông mà Đức Chúa Trời đã ban vào tâm ông.
25 Và họ đem đến mỗi người lễ vật mình: các vật dụng bằng bạc, và các vật dụng bằng vàng, và y phục, và áo giáp, và hương liệu, và ngựa, và la. Chuyện thường niên.
26 Sa-lô-môn cũng tập trung chiến xa và kỵ binh; và ông có một nghìn bốn trăm chiến xa và mười hai nghìn kỵ binh, và ông dẫn chúng vào các thành chiến xa, và với vua tại Giê-ru-sa-lem.
27 Và vua làm cho bạc tại Giê-ru-sa-lem như đá, và làm cho bá hương như sung trong thung lũng, về độ nhiều.
28 Sa-lô-môn cũng có ngựa nhập khẩu từ Ai Cập. Và các tay buôn của vua lấy gộp (*) về theo giá mua gộp (*).
(*) Từ “gộp” này trong một số bản dịch là “sợi lanh”, một số bản khác thì cho rằng từ “Cơ-vê” này chỉ một địa danh nên để nguyên, nên câu này mới có nhiều cách cắt nghĩa khác nhau từ các bản dịch khác nhau. Nhưng dịch giả cho rằng cách cắt nghĩa này là chuẩn xác vì khớp với câu 29 bên dưới.
29 Và mỗi chiến xa đi lên và ra khỏi Ai Cập là sáu trăm bạc, còn ngựa là một trăm năm mươi. Cũng như vậy cho tất cả các vua dân Hê-tít và cho các vua A-ram, bởi tay họ mà đem ra.