II Sa-mu-ên – Chương 8
STT | Cựu Ước | Tân Ước |
---|---|---|
01 | Khởi Nguyên | Ma-thi-ơ |
02 | Xuất Hành | Mác |
03 | Lê-vi | Lu-ca |
04 | Dân Số | Giăng |
05 | Nhị Luật | Công Vụ |
06 | Giô-suê | Rô-ma |
07 | Thẩm Phán | I Cô-rinh-tô |
08 | Ru-tơ | II Cô-rinh-tô |
09 | I Sa-mu-ên | Ga-la-ti |
10 | II Sa-mu-ên | Ê-phê-sô |
11 | I Các Vua | Phi-líp |
12 | II Các Vua | Cô-lô-se |
13 | I Sử Ký | I Tê-sa-lô-ni-ca |
14 | II Sử Ký | II Tê-sa-lô-ni-ca |
15 | Ê-xơ-ra | I Ti-mô-thê |
16 | Nê-hê-mi | II Ti-mô-thê |
17 | Ê-xơ-tê | Tít |
18 | Gióp | Phi-lê-môn |
19 | Thi Ca | Hê-bơ-rơ |
20 | Châm Ngôn | Gia-cơ |
21 | Truyền Đạo | I Phi-e-rơ |
22 | Nhã Ca | II Phi-e-rơ |
23 | Ê-sai | I Giăng |
24 | Giê-rê-mi | II Giăng |
25 | Ca Thương | III Giăng |
26 | Ê-xê-chi-ên | Giu-đe |
27 | Đa-ni-ên | Mặc Khải |
28 | Ô-sê | |
29 | Giô-ên | |
30 | A-mốt | |
31 | Áp-đia | |
32 | Giô-na | |
33 | Mi-chê | |
34 | Na-hum | |
35 | Ha-ba-cúc | |
36 | Sô-phô-ni | |
37 | A-ghê | |
38 | Xa-cha-ri | |
39 | Ma-la-chi |
1 Và rồi sau đó thì Đa-vít đánh hạ người Phi-li-tin và khuất phục chúng, và Đa-vít lấy Mê-thê-gam-ma (*) khỏi tay người Phi-li-tin.
(*) Từ này có nghĩa là “thành phố mẹ”, có lẽ chỉ thành Gát trong [13] I Sử ký 18:1.
2 Và ông đánh hạ Mô-áp, và đo chúng bằng dây, bắt chúng nằm xuống đất và đo: hai dây thì xử tử, một dây trọn thì bảo toàn mạng sống. Và Mô-áp trở thành các đầy tớ của Đa-vít, mang cống vật.
3 Đa-vít cũng đánh bại Ha-đa-đê-xe, con trai Rê-hốp, vua Xô-ba khi ông ta đi khôi phục lãnh thổ mình tại sông Ơ-phơ-rát.
4 Và Đa-vít bắt từ ông ta một nghìn (*) – và bảy trăm kỵ binh (**) và hai mươi nghìn người là bộ binh – và Đa-vít cắt nhượng ngựa tất cả chiến xa, nhưng để lại từ chúng một trăm chiến xa.
(*) Tức một nghìn chiến xa, có ngựa bị cắt nhượng ở nửa sau của câu.
(**) Số 700 kỵ binh này có vẻ mâu thuẫn với số 7000 kỵ binh nói trong [13] I Sử ký 18:4, nhưng nguyên nhân có thể vô cùng đơn giản: thời xưa chiến xa hay ngựa chiến đều rất quý, nên mỗi ngựa chiến sẽ có mười người cưỡi luân phiên, đề phòng người này chết thì người kia cưỡi. Có tổng cộng 700 con ngựa chiến, nhưng 7000 người cưỡi ngựa. Thời điểm viết [10] II Sa-mu-ên 8:4, như vậy chỉ tính là 700 đơn vị kỵ binh, nhưng thời điểm viết [13] I Sử ký 18:4 thì được tính là 7000 đơn vị kỵ binh. Điều tương tự cũng xảy ra giữa [10] II Sa-mu-ên 10:18, có 700 chiến xa, và [13] I Sử ký 19:18, có 7000 lính đánh chiến xa.
5 Và người A-ram của Đa-mách đến cứu viện Ha-đa-đê-xe, vua Xô-ba, và Đa-vít đánh giết người A-ram hai mươi hai nghìn người.
6 Và Đa-vít sắp đặt các đồn trú ở A-ram của Đa-mách, và người A-ram trở thành các đầy tớ của Đa-vít, mang cống vật. Và YHWH cứu giúp Đa-vít trong mọi nơi ông đi.
7 Và Đa-vít lấy các khiên vàng đã từng thuộc về các đầy tớ của Ha-đa-đê-xe, và đem chúng về Giê-ru-sa-lem.
8 Và từ Bê-tách và từ Bê-rô-tôi là các thành của Ha-đa-đê-xe, vua Đa-vít đã lấy rất nhiều đồng.
9 Và Thôi, vua Ha-mát, nghe được rằng Đa-vít đã đánh hạ toàn bộ đội quân của Ha-đa-đê-xe,
10 thì Thôi sai Giô-ram, con trai mình, đến vua Đa-vít để hỏi thăm an lành ông, và để chúc tụng ông về việc ông đã chiến đấu với Ha-đa-đê-xe và đánh bại ông ta – vì Ha-đa-đê-xe là người tranh chiến với Thôi – và trong tay cậu là các đồ bạc, và các đồ vàng, và các đồ đồng.
11 Vua Đa-vít thánh hóa cả chúng lên YHWH cùng bạc và vàng mà ông đã thánh hóa từ tất cả các nước mà ông đã chinh phục:
12 từ A-ram, và từ Mô-áp, và từ con cháu Am-môn, và từ người Phi-li-tin, và từ A-ma-léc, và từ chiến lợi phẩm của Ha-đa-đê-xe, con trai Rê-hốp, vua Xô-ba.
13 Đa-vít cũng tạo lập được danh tiếng khi ông trở về từ việc ông đánh giết người A-ram trong thung lũng Muối: mười tám nghìn,
14 và sắp đặt các đồn trú ở Ê-đôm: trong khắp Ê-đôm ông đã đặt để các đồn trú, và cả Ê-đôm trở thành các đầy tớ của Đa-vít. Và YHWH cứu giúp Đa-vít trong mọi nơi ông đi.
15 Và Đa-vít trị vì trên toàn Is-ra-ên, và thế là Đa-vít thực thi sự phán xét và công lý cho toàn dân mình.
16 Và Giô-áp, con trai Xê-ru-gia, ở trên quân đội, và Giô-sa-phát, con trai A-hi-lút, là quan ngự sử;
17 và Xa-đốc, con trai A-hi-túp, và A-hi-mê-léc, con trai A-bia-tha, là các thầy tế lễ; và Sê-ra-gia là thư ký;
18 Và Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa: cả người Kê-rê-thít lẫn người Phê-lê-thít; còn các con trai Đa-vít thì các thầy tế lễ (*).
(*) Ở đây không phải đang nói các con trai Đa-vít là các thầy tế lễ, mà thay vào đó theo mạch văn ở trên: hoặc các con trai Đa-vít chịu trách nhiệm về các thầy tế lễ, hoặc các thầy tế lễ chịu trách nhiệm các con trai Đa-vít. Một số bản dịch “các con trai Đa-vít LÀ các thầy tế lễ” là dịch sai. Các thầy tế trong giai đoạn này phải là người thuộc dòng dõi A-rôn. Nếu có bất cứ ngoại lệ nào, ví dụ như Sa-mu-ên, thì phải được Chúa đích thân chỉ định. Còn các con trai Đa-vít, đối chiếu với [13] I Sử ký 18:17, ta biết họ là những người đứng đầu chầu cạnh vua chứ càng không phải là các thầy tế lễ.