Khởi Nguyên – Chương 30
STT | Cựu Ước | Tân Ước |
---|---|---|
01 | Khởi Nguyên | Ma-thi-ơ |
02 | Xuất Hành | Mác |
03 | Lê-vi | Lu-ca |
04 | Dân Số | Giăng |
05 | Nhị Luật | Công Vụ |
06 | Giô-suê | Rô-ma |
07 | Thẩm Phán | I Cô-rinh-tô |
08 | Ru-tơ | II Cô-rinh-tô |
09 | I Sa-mu-ên | Ga-la-ti |
10 | II Sa-mu-ên | Ê-phê-sô |
11 | I Các Vua | Phi-líp |
12 | II Các Vua | Cô-lô-se |
13 | I Sử Ký | I Tê-sa-lô-ni-ca |
14 | II Sử Ký | II Tê-sa-lô-ni-ca |
15 | Ê-xơ-ra | I Ti-mô-thê |
16 | Nê-hê-mi | II Ti-mô-thê |
17 | Ê-xơ-tê | Tít |
18 | Gióp | Phi-lê-môn |
19 | Thi Ca | Hê-bơ-rơ |
20 | Châm Ngôn | Gia-cơ |
21 | Truyền Đạo | I Phi-e-rơ |
22 | Nhã Ca | II Phi-e-rơ |
23 | Ê-sai | I Giăng |
24 | Giê-rê-mi | II Giăng |
25 | Ca Thương | III Giăng |
26 | Ê-xê-chi-ên | Giu-đe |
27 | Đa-ni-ên | Mặc Khải |
28 | Ô-sê | |
29 | Giô-ên | |
30 | A-mốt | |
31 | Áp-đia | |
32 | Giô-na | |
33 | Mi-chê | |
34 | Na-hum | |
35 | Ha-ba-cúc | |
36 | Sô-phô-ni | |
37 | A-ghê | |
38 | Xa-cha-ri | |
39 | Ma-la-chi |
1 Và Ra-chên thấy rằng nàng không sinh đẻ được cho Gia-cốp, và Ra-chên ghen tị với chị nàng, và nói với Gia-cốp: “Cho em có con cái đi! Chứ nếu không em chết mất!”
2 Và Gia-cốp nổi cáu với Ra-chên và nói: “Anh thay được Đức Chúa Trời, Đấng giữ lại khỏi em bông trái của bụng à?!”
3 Và nàng nói: “Kìa, nữ tì của em là Bi-la, hãy đến với nó, và nó sẽ sinh đẻ trên đầu gối em, và em cũng sẽ được gây dựng từ nó.”
4 Và nàng giao cho ông Bi-la nữ tì của nàng làm vợ, và Gia-cốp đến với cô.
5 Và Bi-la mang thai và sinh cho Gia-cốp một con trai.
6 Và Ra-chên nói: “Đức Chúa Trời đã xét xử tôi và cũng đã nghe tiếng tôi, và ban cho tôi một con trai.” Vì vậy, bà gọi tên nó là Đan (*).
(*) Nghĩa là “xét xử”, “phán xét”.
7 Và Bi-la nữ tì của Ra-chên lại mang thai và sinh một con trai thứ hai cho Gia-cốp.
8 Và Ra-chên nói: “Tôi đã vật lộn với chị tôi những cuộc vật lộn thần kỳ (*), và tôi đã thắng.” Và nàng gọi tên nó là Nép-ta-li (**).
(*) Từ này chính là từ “Đức Chúa Trời” hay “thần”, khi sử dụng làm bổ từ cho từ khác, được chuyển nghĩa thành “thần kỳ”, “thần thánh”.
(**) Nghĩa là “cuộc vật lộn”.
9 Và Lê-a thấy rằng mình đã ngưng sinh đẻ thì lấy Xinh-ba nữ tì của bà và giao cô cho Gia-cốp làm vợ.
10 Và Xinh-ba nữ tì của Lê-a sinh cho Gia-cốp một con trai.
11 Và Lê-a nói: “May mắn đến!” Và gọi tên nó là Gát (*).
(*) Nghĩa là “may mắn”.
12 Và Xinh-ba nữ tì của Lê-a sinh một con trai thứ hai cho Gia-cốp.
13 Và Lê-a nói: “Tôi hạnh phúc biết bao! Vì các cô gái sẽ gọi tôi là người hạnh phước.” Và bà gọi tên nó là A-se (*).
(*) Nghĩa là “hạnh phúc”.
14 Và trong những ngày gặt lúa mì, Ru-bên đi và tìm được đu-đa-im (*) trong cánh đồng, và đem chúng về cho Lê-a mẹ mình. Và Ra-chên nói với Lê-a: “Xin chị cho em đu-đa-im của con chị.”
(*) Đây là một thứ cây ở vùng Địa Trung Hải, tên tiếng Anh là “mandrake”, chưa có tên tiếng Việt tương ứng nên dịch giả để nguyên phiên âm tên Hê-bơ-rơ là “dudaim”. Cây này có độc nên sử dụng phải hết sức cẩn thận, hoa màu trắng hoặc tím, quả màu vàng đỏ mọc thành chùm, và mặc dù không phải nhân sâm, rễ cây của nó có hình người khá độc đáo nên người ta tin rằng nó sẽ giúp mang thai. Thời xưa nó còn được dùng trong điều chế thuốc, bùa chú và ma thuật.
15 Và bà nói với nàng: “Cô lấy chồng của tôi còn là chuyện nhỏ à, mà còn lấy cả đu-đa-im của con trai tôi?” Và Ra-chên nói: “Vậy thì ông ấy sẽ nằm với chị đêm nay, đổi lại cho đu-đa-im của con trai chị.”
16 Và Gia-cốp từ đồng về vào chiều tối thì Lê-a tiến ra đón ông và nói: “Ông hãy đến với tôi, vì tôi thật đã mướn được ông bằng đu-đa-im của con trai tôi rồi!” Và ông nằm với bà chính đêm ấy.
17 Và Đức Chúa Trời nghe Lê-a, và bà mang thai và sinh cho Gia-cốp con trai thứ năm.
18 Và Lê-a nói: “Đức Chúa Trời đã trả công tôi, vì tôi đã giao nữ tì của tôi cho chồng tôi.” Và bà gọi tên nó là Y-sa-ca (*).
(*) Nghĩa là “trả công”.
19 Và Lê-a lại mang thai và sinh con trai thứ sáu cho Gia-cốp.
20 Và Lê-a nói: “Đức Chúa Trời đã ban cho tôi gia tài tốt đẹp. Bây giờ chồng tôi sẽ quý trọng tôi vì tôi đã sinh cho ông sáu người con trai.” Và bà gọi tên nó là Sa-bu-lôn (*).
(*) Nghĩa là “gia tài”, “cơ nghiệp”, “món quà quý giá”.
21 Và sau đó, bà sinh một con gái và gọi tên nàng là Đi-na.
22 Và Đức Chúa Trời nhớ đến Ra-chên, và Đức Chúa Trời nghe bà, và mở dạ bà.
23 Và bà mang thai và sinh một con trai, và nói: “Đức Chúa Trời đã cất bỏ nỗi nhục nhã của tôi rồi!”
24 Và bà gọi tên nó là Giô-sép (*), nói: “YHWH sẽ thêm cho tôi một con trai nữa!”
(*) Nghĩa là “thêm vào”.
25 Và rồi, khi mà Ra-chên đã sinh Giô-sép, thì Gia-cốp thưa với La-ban: “Hãy cho con đi, và con sẽ đi về chỗ của con, và về xứ của con.
26 Hãy giao các vợ của con và con cái của con, mà con đã phục vụ cha để được họ, và con sẽ đi, vì cha biết sự phục vụ của con mà con đã phục vụ cha.”
27 Và La-ban nói với chàng: “Nếu ta được ơn trong mắt con, thì xin con; ta cũng đã chiêm nghiệm (*) được YHWH đã ban phước cho ta vì con.”
(*) Từ này nguyên gốc là “bói toán” hoặc “nhận biết qua việc quan sát các điềm báo, dấu hiệu”.
28 Và ông nói: “Con hãy định tiền công mình cho ta, và ta sẽ trả.”
29 Và chàng nói với ông: “Cha biết thể nào con đã phục vụ cha, và súc vật của cha đã ra thế nào nhờ con rồi.
30 Vì trước con, số cha có ít ỏi, rồi gia tăng thành đông đảo, và YHWH đã ban phước cho cha theo bàn chân con. Và giờ, khi nào thì con mới được làm lụng cả cho gia đình con nữa?”
31 Và ông nói: “Ta sẽ cho con cái gì?” Và Gia-cốp thưa: “Cha sẽ chẳng phải cho con thứ gì cả nếu cha làm cho con điều này thì con sẽ trở lại chăn giữ bầy gia súc của cha.
32 Con sẽ đi qua cả bầy gia súc của cha hôm nay để lấy đi khỏi đó tất cả những con vằn và đốm, và tất cả những con tối màu trong số chiên, và những con đốm và vằn trong số dê, và chúng sẽ là tiền công của con.
33 Và sự công chính của con sẽ trả lời cho con trong ngày sau sẽ tới về tiền công của con trước mặt cha: tất cả những con mà không có vằn và đốm trong số dê, và tối màu trong số chiên, thì chính là vật con ăn cắp!”
34 Và La-ban nói: “Kìa, sẽ như lời của con!”
35 Và ông ta lấy đi chính hôm ấy các dê đực sọc và đốm, và tất cả các dê cái vằn và đốm, tất cả các con vật có đốm trắng trong nó và tất cả các con tối màu trong số chiên, và giao vào tay các con trai mình,
36 và đặt cách ba ngày đường giữa ông và giữa Gia-cốp. Và Gia-cốp chăn bầy gia súc còn lại của La-ban.
37 Và Gia-cốp lấy cho mình những cành bạch dương tươi, và bồ đào, và bá tiên, và lột vỏ các đường trắng trên chúng, làm lộ ra màu trắng trên cành,
38 và đặt những cành mà ông đã lột vỏ vào trong máng uống nước mà bầy gia súc đến để uống, ở trước bầy gia súc, và chúng giao phối khi chúng đến uống.
39 Và bầy gia súc giao phối trước các cành ấy, và bầy gia súc sinh ra những con sọc, vằn và đốm.
40 Và Gia-cốp tách riêng những con chiên ra và quay mặt của bầy gia súc về phía những con sọc và tất cả những con tối màu trong bầy gia súc của La-ban. Và ông để các bầy cho mình riêng ra, và không để chúng trong bầy gia súc của La-ban.
41 Và rồi cứ khi nào các con vật khỏe mạnh giao phối thì Gia-cốp đặt các cành trong máng trước mắt con vật, để chúng giao phối giữa các cành ấy,
42 còn với các con vật ốm yếu thì ông không để vào. Và rồi những con ốm yếu thuộc về La-ban, và những con khỏe mạnh thuộc về Gia-cốp,
43 và người phát đạt tột cùng tột độ. Và ông thành ra có nhiều gia súc, và tớ gái, và tôi trai, và lạc đà, và lừa.