Khởi Nguyên – Chương 11

1 Và cả trái đất đều một ngôn ngữ và một tiếng nói.

2 Và rồi, trong cuộc hành trình của họ từ phương đông thì họ tìm thấy một thung lũng trong đất Si-na, và cư ngụ ở đó.

3 Và mỗi người nói với bạn mình: “Nào, chúng ta hãy đúc gạch và nung trong lửa.” Và rồi họ có gạch làm đá, và họ có nhựa làm vữa.

4 Và họ nói: “Nào, chúng ta sẽ xây cho chúng ta một thành và một tháp, và đỉnh của nó sẽ ở trên trời! Và chúng ta sẽ làm nên danh tiếng cho chúng ta, kẻo chúng ta bị tản lạc trên khắp mặt đất.”

5 Và YHWH ngự xuống xem cái thành và ngọn tháp mà các con trai loài người đã xây dựng.

6 Và YHWH phán: “Kìa, tất cả chúng có một dân và một ngôn ngữ, và chúng bắt đầu làm đã thế này! Và giờ thì mọi điều mà chúng suy tính làm sẽ chẳng còn được ngăn khỏi chúng!

7 Nào, Chúng Ta hãy ngự xuống, và ở đó Chúng Ta sẽ làm tan rã ngôn ngữ của chúng, để mỗi người sẽ chẳng còn nghe được ngôn ngữ bạn mình.”

8 Và YHWH phân tán họ từ đó ra khắp cả mặt đất, và họ bỏ việc xây thành.

9 Vì thế, Ngài gọi tên nó là Ba-by-lon (*), vì tại đó YHWH đã làm tan rã ngôn ngữ cả trái đất, và từ đó YHWH phân tán họ ra khắp cả mặt đất.

(*) Ghi chú: các phát hiện khảo cổ học cho biết Ba-by-lon chính là nơi khởi đầu của tín ngưỡng thờ mặt trời. Truyện kể rằng: Nim-rốt, kẻ xây cái thành này ([01] Khởi Nguyên 10:10) lấy mẹ của hắn là Sê-mi-ra-mi làm vợ. Một thời gian sau khi hắn bị tiêu diệt bởi phe những người con của Đức Chúa Trời, Sê-mi-ra-mi dựng chuyện rằng linh hồn Nim-rốt đã bay lên mặt trời và trở thành thần mặt trời. Sau đó, khi mụ ta đột nhiên có thai, mụ bảo với mọi người rằng ánh sáng mặt trời đã chiếu xuống mụ, thụ thai, sinh ra một con trai đặt tên là Tam-mun (chính là Tam-mun trong [26] Ê-xê-chi-ên 8:14), là “người cha tái sinh trong hình hài người con”. Thế là bộ ba Nim-rốt, Sê-mi-ra-mi và Tam-mun trở thành thần mặt trời ba ngôi đầu tiên trong lịch sử nhân loại, và Ba-by-lon chính là nơi khai sinh ra tín ngưỡng này, mà thực chất là sự thờ phượng Ma Quỷ trá hình. Còn về phía Đức Chúa Trời, Ngài có thể thấy rõ cái tháp và cái thành này sẽ là cả một cơn ác mộng, nên đã cùng với Con Trai Ngài ngự xuống và giải tán đám đông bằng cách làm rối loạn ngôn ngữ. Sau khi loài người từ Ba-by-lon tản ra khắp đất, họ mang theo tín ngưỡng ba ngôi ông-mặt-trời của mình và lập ra khắp các nền tôn giáo ba ngôi ngoại đạo chỉ khác nhau mỗi tên gọi: ba ngôi của Ai Cập: Osiris, Horus, Isis; ba ngôi của Hy Lạp: Zeus, Apollo, Athena; ba ngôi của Ấn Độ: Brahma, Vishnu, Shiva; ba ngôi của Rome: Jupiter, Mars, Venus; ba ngôi của Việt Nam: Lạc Long Quân, Âu Cơ, Hùng Vương (được coi là con trai của Lạc Long Quân và Âu Cơ, cúng giỗ vào 10/3 âm lịch hàng năm), v.v… Biểu tượng hay được sử dụng của các tín ngưỡng ba ngôi thờ thần mặt trời trá hình này là hình ngôi sao Triquetra, là phần giao của 3 vòng tròn tượng trưng cho mặt trời mọc, mặt trời giữa trưa, và mặt trời lặn.

Năm 325 sau công nguyên tại hội đồng Nicea, tín ngưỡng ba ngôi này cuối cùng đã xâm nhập thành công hội thánh Cơ Đốc Thiên Chúa giáo Vatican, và sau đó di truyền lại sang nhiều hội thánh Tin Lành cho đến tận giờ. Còn Kinh Thánh thì cả quyển đều không hề có dù chỉ một từ “ba ngôi” (Trinity), hay “Đức Chúa Con” (God the Son), hay “Đức Chúa Thánh Linh” (God the Holy Spirit) nào. Thay vào đó là “Con Trai của Đức Chúa Trời” (Son of God) và “Linh của Đức Chúa Trời” (Spirit of God). Tham khảo bài “Cha, Con và Thánh Linh“.

<The two Babylons, Alexander Hyslop, 1853>.

10 Ðây là dòng dõi của Sem: Sem được một trăm tuổi, và sinh Ạc-pác-sát hai năm sau trận lụt.

11 Và Sem sống sau khi ông sinh Ạc-pác-sát năm trăm năm, và sinh các con trai và các con gái.

12 Và Ạc-pác-sát sống ba mươi lăm năm, và sinh Sê-la (*).

(*) Thực ra theo [03] Lu-ca 3:36, Sê-la là cháu nội của Ạc-pác-sát. Còn có một người nữa là Kê-nan ở giữa họ. Nhưng có lẽ đã xảy ra một bê bối tồi tệ nào đó khiến cho Kê-nan bị xóa tên tại đây.

13 Và Ạc-pác-sát sống sau khi ông sinh Sê-la bốn trăm lẻ ba năm, và sinh các con trai và các con gái.

14 Và Sê-la sống ba mươi năm, và sinh Ê-be.

15 Và Sê-la sống sau khi ông sinh Ê-be bốn trăm lẻ ba năm, và sinh các con trai và các con gái.

16 Và Ê-be sống ba mươi tư năm, và sinh Pê-léc.

17 Và Ê-be sống sau khi ông sinh Pê-léc bốn trăm ba mươi năm, và sinh các con trai và các con gái.

18 Và Pê-léc sống ba mươi năm, và sinh Rê-u.

19 Và Pê-léc sống sau khi ông sinh Rê-u hai trăm lẻ chín năm, và sinh các con trai và các con gái.

20 Và Rê-u sống ba mươi hai năm, và sinh Sê-rúc.

21 Và Rê-u sống sau khi ông sinh Sê-rúc hai trăm lẻ bảy năm, và sinh các con trai và các con gái.

22 Và Sê-rúc sống ba mươi năm, và sinh Na-hô.

23 Và Sê-rúc sống sau khi ông sinh Na-hô hai trăm năm, và sinh các con trai và các con gái.

24 Và Na-hô sống hai mươi chín năm, và sinh Tê-ra.

25 Và Na-hô sống sau khi ông sinh Tê-ra một trăm mười chín năm, và sinh các con trai và các con gái.

26 Và Tê-ra sống bảy mươi năm, và sinh Áp-ram, Na-hô, và Ha-ran.

27 Và đây là dòng dõi của Tê-ra: Tê-ra sinh Áp-ram, Na-hô, và Ha-ran. Và Ha-ran sinh Lót.

28 Và Ha-ran chết trước Tê-ra cha của ông, tại đất của thân quyến ông, ở U-rơ của người Canh-đê.

29 Và Áp-ram và Na-hô lấy cho mình những người vợ. Tên vợ Áp-ram là Sa-rai, và tên vợ Na-hô là Minh-ca con gái của Ha-ran, là cha của Minh-ca và là cha của Ích-ca.

30 Và Sa-rai hiếm muộn: nàng không có con.

31 Và Tê-ra đem Áp-ram con trai ông, và Lót con trai của con trai ông, và Sa-rai con dâu ông, vợ của Áp-ram con trai ông, và cùng họ tiến ra khỏi U-rơ của người Canh-đê, để đi về hướng đất Ca-na-an và đi xa được đến Cha-ran, và cư ngụ tại đó.

32 Và các ngày của Tê-ra là hai trăm lẻ năm năm, và Tê-ra chết tại Cha-ran.