I Cô-rinh-tô – Chương 14
STT | Cựu Ước | Tân Ước |
---|---|---|
01 | Khởi Nguyên | Ma-thi-ơ |
02 | Xuất Hành | Mác |
03 | Lê-vi | Lu-ca |
04 | Dân Số | Giăng |
05 | Nhị Luật | Công Vụ |
06 | Giô-suê | Rô-ma |
07 | Thẩm Phán | I Cô-rinh-tô |
08 | Ru-tơ | II Cô-rinh-tô |
09 | I Sa-mu-ên | Ga-la-ti |
10 | II Sa-mu-ên | Ê-phê-sô |
11 | I Các Vua | Phi-líp |
12 | II Các Vua | Cô-lô-se |
13 | I Sử Ký | I Tê-sa-lô-ni-ca |
14 | II Sử Ký | II Tê-sa-lô-ni-ca |
15 | Ê-xơ-ra | I Ti-mô-thê |
16 | Nê-hê-mi | II Ti-mô-thê |
17 | Ê-xơ-tê | Tít |
18 | Gióp | Phi-lê-môn |
19 | Thi Ca | Hê-bơ-rơ |
20 | Châm Ngôn | Gia-cơ |
21 | Truyền Đạo | I Phi-e-rơ |
22 | Nhã Ca | II Phi-e-rơ |
23 | Ê-sai | I Giăng |
24 | Giê-rê-mi | II Giăng |
25 | Ca Thương | III Giăng |
26 | Ê-xê-chi-ên | Giu-đe |
27 | Đa-ni-ên | Mặc Khải |
28 | Ô-sê | |
29 | Giô-ên | |
30 | A-mốt | |
31 | Áp-đia | |
32 | Giô-na | |
33 | Mi-chê | |
34 | Na-hum | |
35 | Ha-ba-cúc | |
36 | Sô-phô-ni | |
37 | A-ghê | |
38 | Xa-cha-ri | |
39 | Ma-la-chi |
1 Hãy theo đuổi tình yêu thương, hãy khao khát những thứ thuộc linh, nhất là để các bạn có thể nói tiên tri.
2 Vì người nói ngoại ngữ (*) không nói với loài người, mà với Đức Chúa Trời vì không ai hiểu được, nhưng người ấy nói những điều bí ẩn với tâm linh.
(*) Từ này trong nhiều bản dịch được dịch là “tiếng lạ”, nhưng nó đơn thuần nghĩa là ngoại ngữ mà thôi. Thời xưa người ta chủ yếu cả đời chỉ sinh sống luẩn quẩn tại nơi mình sinh ra và lớn lên, nên việc một người có thể nói được các ngoại ngữ vốn không phải những thứ tiếng thông dụng nơi quê hương mình là điều rất hiếm có, đến mức Cơ Đốc nhân nào nói được ngoại ngữ thì gần như chắc chắn là đã phải được ban cho ân tứ này qua báp-tem Thánh Linh. Trong cả Kinh Thánh, có tổng cộng ba lần Thánh Linh giáng xuống những người tin và làm cho họ nói “tiếng lạ”: [05] Công vụ 2:11 (các môn đồ vào lễ Ngũ Thập khi Thánh Linh tuôn đổ), [05] Công vụ 10:44-46 (gia đình Cọt-nây được Phi-e-rơ truyền giảng cho), [05] Công vụ 19:6 (các môn đồ Ê-phê-sô được Phao-lô truyền giảng cho), và cả ba lần ấy đều là những ngôn ngữ có thể hiểu được bởi những người có mặt, là những người cũng nói các thứ tiếng ấy. Ân tứ này là khả năng đột nhiên nói được những ngoại ngữ cụ thể, có nghĩa (đối chiếu câu 10 bên dưới) mà mình chưa từng biết, được Đức Chúa Trời ban cho để hỗ trợ việc truyền giảng Tin Lành, giúp vượt qua rào cản ngôn ngữ trong công tác rao giảng, chứ không bao giờ là những tiếng kêu lảm nhảm vô nghĩa, vô dụng cả. Xin nói rõ để độc giả tiện phân biệt, và ai đang bị nhầm lẫn về vấn đề này có thể được Sự Thật gỡ ra khỏi nhầm lẫn của mình, đến với một đức tin đơn sơ, trong sáng hơn, không còn sự giả bộ, để không còn điều ngăn trở gì cho việc nhận lãnh những ân tứ màu nhiệm thực sự từ Đức Chúa Trời.
3 Còn người nói tiên tri nói với con người cho việc gây dựng, và khích lệ, và an ủi.
4 Người nói ngoại ngữ gây dựng chính mình, còn người nói tiên tri gây dựng Hội Thánh.
5 Tôi muốn tất cả các bạn đều nói được các ngoại ngữ, nhưng thà là để các bạn có thể nói tiên tri. Vì người nói tiên tri lớn hơn người nói các ngoại ngữ, trừ phi người ấy phiên dịch ra, để Hội Thánh có thể được gây dựng.
6 Bây giờ, các anh em, nếu tôi đến với các bạn mà nói bằng các ngoại ngữ, các bạn sẽ được ích lợi gì, trừ phi tôi nói với các bạn hoặc với sự mặc khải, hoặc với tri thức, hoặc với tiên tri, hoặc với giáo lý?!
7 Tương tự, những thứ vô hồn phát ra tiếng, dù sáo hay đàn hạc, trừ phi phát ra những âm thanh rạch ròi, làm sao biết được đang sáo hay đang đàn gì?
8 Vì nếu kèn cũng phát tiếng không rõ ràng, ai sẽ chuẩn bị chiến đấu?
9 Các bạn cũng như vậy, trừ phi các bạn phát ra bằng ngôn ngữ những lời dễ hiểu, làm sao biết được điều gì đang được nói? Vì các bạn sẽ nói vào không khí mà thôi!
10 Dù có biết bao thứ tiếng trên thế giới, cũng không một thứ nào vô nghĩa.
11 Vậy, nếu tôi không hiểu ý nghĩa của tiếng ấy, tôi sẽ là người ngoại quốc với người nói, và người nói là người ngoại quốc với tôi.
12 Các bạn cũng như vậy, vì các bạn đang khao khát những thứ thuộc linh, hãy tìm kiếm cho việc gây dựng Hội Thánh để được dư dật.
13 Vậy người nói được ngoại ngữ, hãy cầu nguyện để có thể phiên dịch được (*).
(*) Nghe thì có vẻ kỳ lạ, nhưng đúng là nói được một ngoại ngữ là một chuyện, đồng bộ được ý nghĩa của ngoại ngữ ấy với tiếng mẹ đẻ trong đầu để phiên dịch được, là cả một câu chuyện khác. Bản thân dịch giả có khả năng ngoại ngữ rất tốt, nhưng nhiều khi dịch một từ tiếng nước ngoài về tiếng Việt vẫn phải lúng túng.
14 Vì nếu tôi cầu nguyện bằng ngoại ngữ, tâm linh của tôi cầu nguyện, nhưng ý nghĩa của tôi không kết quả (*).
(*) Ý nghĩa của lời cầu nguyện mình sẽ không anh em nào hiểu được. Xem câu 16 bên dưới.
15 Vậy thì sao? Tôi sẽ cầu nguyện với tâm linh, nhưng cũng sẽ cầu nguyện với ý nghĩa. Tôi sẽ ngợi ca với tâm linh, nhưng cũng sẽ ngợi ca với ý nghĩa.
16 Vì nếu bạn chúc phước với tâm linh, người đang ở vị trí của người bình thường làm sao nói “A-men” với lời tạ ơn của bạn được, khi mà người ấy chẳng hiểu bạn đang nói cái gì?!
17 Vì bạn tạ ơn thật là hay, nhưng không gây dựng cho người khác.
18 Tôi cảm tạ Đức Chúa Trời tôi: tôi nói được nhiều ngoại ngữ hơn tất cả các bạn.
19 Nhưng trong Hội Thánh, tôi thà nói năm lời của mình bằng ý nghĩa để dạy dỗ cả những người khác, hơn là muôn vạn lời bằng ngoại ngữ.
20 Các anh em, đừng làm bọn trẻ nít về tư duy, nhưng hãy là trẻ con về điều dữ ấy. Còn về tư duy, hãy trưởng thành vào.
21 Trong luật pháp có chép:
“‘Vì với các tiếng khác và với những môi khác, Ta sẽ phán với dân này
Dù vậy, chúng cũng sẽ không nghe Ta,’ Chúa phán.”
22 Vậy các ngoại ngữ là dấu hiệu không phải cho những người tin, mà cho những người không tin, còn tiên tri thì không phải cho những người không tin, mà cho những người tin.
23 Nếu vậy, khi cả Hội Thánh nhóm lại về một chỗ, và tất cả đều nói các ngoại ngữ, rồi những người bình thường hay những người không tin tiến vào, họ sẽ không bảo rằng các bạn điên rồi sao?
24 Nhưng nếu tất cả đều nói tiên tri, rồi vài người không tin hay người bình thường tiến vào, người ấy sẽ được khiển trách bởi tất cả, người ấy sẽ được tra xét bởi tất cả.
25 Và như vậy, những điều bí mật của trái tim người ấy bị trở nên rõ ràng, và như vậy, người ấy sẽ sấp mặt xuống mà thờ lạy Đức Chúa Trời, tuyên bố rằng: “Đức Chúa Trời quả thật đang ở giữa các bạn!”
26 Vậy thì sao, các anh em? Khi nào các bạn nhóm lại, mỗi người các bạn có bài thi ca, có giáo lý, có ngoại ngữ, có sự mặc khải, có sự phiên dịch, tất cả hãy được thực hiện hướng đến sự gây dựng.
27 Nếu vài người nói ngoại ngữ, hãy theo hai hoặc tối đa là ba người, và theo thứ tự, và một người hãy phiên dịch.
28 Còn nếu không có người phiên dịch, người ấy hãy yên lặng trong Hội Thánh, mà nói với chính mình và với Đức Chúa Trời.
29 Các nhà tiên tri hãy nói hai hay ba người, và những người khác hãy cân nhắc.
30 Còn nếu có sự mặc khải cho ai khác đang ngồi, người trước hãy yên lặng.
31 Vì tất cả các bạn có thể từng người một nói tiên tri, để tất cả có thể học hỏi, và tất cả có thể được khích lệ.
32 Các linh của các nhà tiên tri cũng thuận phục các nhà tiên tri (*).
(*) Do vậy một nhà tiên tri chân chính sẽ luôn ưng thuận việc được kiểm tra xác thực bởi những nhà tiên tri khác. Nếu một người xưng là nhà tiên tri mà dạy sai Kinh Thánh hoặc cất mình lên trên các nhà tiên tri để không chịu sự kiểm duyệt bởi các ghi chép của họ, người ấy có thể được xác định là tiên tri giả.
33 Vì Đức Chúa Trời không phải là của sự hỗn loạn, nhưng của sự bình an, như trong tất cả các Hội Thánh của các thánh đồ,
34 các phụ nữ của các bạn trong các Hội Thánh hãy yên lặng, vì họ không được phép nói, nhưng thuận phục theo như luật pháp cũng đã nói.
35 Nếu muốn nắm biết điều gì, họ hãy hỏi (*) chồng mình ở nhà, vì phụ nữ nói giữa Hội Thánh là điều đáng xấu hổ. (*)
(*) Lưu ý: không thể có chuyện Phao-lô đang cấm tiệt phụ nữ nói năng bất cứ điều gì giữa hội thánh tại chương 14 này khi ở chương 11 ngay trước đó ông đã hướng dẫn phụ nữ hãy trùm đầu lại khi cầu nguyện và nói tiên tri, cho thấy rõ ràng họ được phép cầu nguyện và nói tiên tri. Và “nói tiên tri” thời xưa còn bao gồm “nói với con người cho việc gây dựng, và khích lệ, và an ủi” theo câu 3 bên trên. Vậy thì Phao-lô đang cấm phụ nữ nói cái gì ở đây? Mấu chốt nằm ở cái từ “hỏi” trong câu này. Nó không phải là từ “hỏi” theo nghĩa “học hỏi”, mà là theo nghĩa “hạch hỏi”, “chất vấn”, kiểu như: “nếu như vậy mới đúng, thì anh sẽ giải thích cho tôi chỗ abc xyz thế nào?!” Phụ nữ không được phép hạch hỏi như thế giữa hội thánh, hay tham gia tranh luận, chất vấn về giáo lý và các vấn đề nghị luận khác giữa hội thánh. Ấy là điều sẽ làm cho hội thánh om sòm hỗn loạn, và Phao-lô đang giảng giải ý này ra từ câu 33 bên trên “vì Đức Chúa Trời không phải là của sự hỗn loạn”, để dạy dỗ sự trật tự cho hội thánh Cô-rinh-tô, thứ mà dường như họ đang bị thiếu. Câu này chỉ cấm phụ nữ lên tiếng trong hoàn cảnh ấy, chứ không cấm họ cầu nguyện, nói tiên tri, hát thánh ca, v.v… Còn nếu cảm thấy không thỏa đáng về giáo lý, muốn thắc mắc gì thì về hỏi riêng người hướng linh của mình (chồng, hoặc cha, hoặc mục sư, hoặc ai đó) sau.
36 Hay Lời của Đức Chúa Trời ra từ các bạn? Hay chỉ đến với các bạn?
37 Nếu ai nghĩ mình là nhà tiên tri hay thuộc linh, người ấy hãy thừa nhận điều tôi đang viết cho các bạn, rằng chúng là các mạng lệnh của Chúa,
38 còn nếu người nào không biết, người ấy hãy không biết.
39 Cho nên, các anh em, hãy khao khát nói tiên tri, cũng đừng cấm đoán việc nói các ngoại ngữ:
40 mọi sự hãy được thực hiện đàng hoàng và theo trật tự.