Hê-bơ-rơ – Chương 9
STT | Cựu Ước | Tân Ước |
---|---|---|
01 | Khởi Nguyên | Ma-thi-ơ |
02 | Xuất Hành | Mác |
03 | Lê-vi | Lu-ca |
04 | Dân Số | Giăng |
05 | Nhị Luật | Công Vụ |
06 | Giô-suê | Rô-ma |
07 | Thẩm Phán | I Cô-rinh-tô |
08 | Ru-tơ | II Cô-rinh-tô |
09 | I Sa-mu-ên | Ga-la-ti |
10 | II Sa-mu-ên | Ê-phê-sô |
11 | I Các Vua | Phi-líp |
12 | II Các Vua | Cô-lô-se |
13 | I Sử Ký | I Tê-sa-lô-ni-ca |
14 | II Sử Ký | II Tê-sa-lô-ni-ca |
15 | Ê-xơ-ra | I Ti-mô-thê |
16 | Nê-hê-mi | II Ti-mô-thê |
17 | Ê-xơ-tê | Tít |
18 | Gióp | Phi-lê-môn |
19 | Thi Ca | Hê-bơ-rơ |
20 | Châm Ngôn | Gia-cơ |
21 | Truyền Đạo | I Phi-e-rơ |
22 | Nhã Ca | II Phi-e-rơ |
23 | Ê-sai | I Giăng |
24 | Giê-rê-mi | II Giăng |
25 | Ca Thương | III Giăng |
26 | Ê-xê-chi-ên | Giu-đe |
27 | Đa-ni-ên | Mặc Khải |
28 | Ô-sê | |
29 | Giô-ên | |
30 | A-mốt | |
31 | Áp-đia | |
32 | Giô-na | |
33 | Mi-chê | |
34 | Na-hum | |
35 | Ha-ba-cúc | |
36 | Sô-phô-ni | |
37 | A-ghê | |
38 | Xa-cha-ri | |
39 | Ma-la-chi |
1 Thật vậy, cái thứ nhất cũng có những quy định về việc thờ phượng và một nơi thánh trần gian.
2 Vì một đền tạm đã được dựng lên, là cái thứ nhất, trong ấy là cả chân đèn lẫn bàn và Bánh Tiền Định, chỗ được gọi là nơi thánh,
3 nhưng sau bức màn thứ hai đền tạm là chỗ được gọi là Nơi Chí Thánh,
4 có lư hương bằng vàng và Hòm Giao Ước bọc mọi chỗ bằng vàng, trong ấy là cái bình bằng vàng có ma-na và cây gậy trổ hoa của A-rôn, và các bảng giao ước,
5 còn phía trên nó là các chê-rúp vinh quang che phủ nắp thi ân, những thứ mà bây giờ không nói chi tiết được.
6 Những thứ này đã được sắp đặt như vậy, để các thầy tế lễ liên tục vào phần thứ nhất đền tạm để hoàn thành các công tác thờ phượng.
7 Nhưng vào trong phần thứ hai thì chỉ duy nhất thầy tế lễ cả một lần mỗi năm, không phải không có máu, mà ông sẽ dâng cho các lầm lỗi của chính mình và của dân chúng.
8 Điều này Thánh Linh đã bày tỏ: đường vào các nơi thánh (*) sẽ chưa được hiển lộ, khi đền tạm thứ nhất vẫn còn đang đứng,
(*) Từ này xuất hiện trong chương này ở 4 chỗ: câu 8, câu 12, câu 24 và câu 25, chỉ đơn thuần là “các nơi thánh” mà không hiểu vì sao rất hay bị dịch ra thành “nơi chí thánh” hoặc “nơi thánh” (số ít). Nó có lẽ nói đến nơi thánh và nơi chí thánh trong đền thờ trên Thiên Đường.
9 thứ là biểu tượng cho thời bấy giờ, theo ấy cả các lễ vật lẫn các sinh tế được dâng đều không thể kiện toàn được lương tâm của người thờ phượng,
10 mà chỉ là về các đồ ăn và các thức uống, và các lễ thanh tẩy khác nhau, và các luật lệ xác thịt được áp đặt cho đến thời kỳ cải cách.
11 Nhưng khi Đấng Christ trở thành thầy tế lễ cả của những điều tốt đẹp sẽ đến, bởi đền tạm vĩ đại hơn và toàn hảo hơn, chẳng làm ra bằng tay, tức là, chẳng của tạo vật (*) này,
(*) Từ này có thể chỉ thế gian, hoặc cái đền thờ hồi ấy vẫn còn ở Giê-ru-sa-lem.
12 cũng chẳng bởi máu của dê đực và bò con, nhưng bằng máu của chính mình, Ngài đã tiến vào các nơi thánh (*) một lần dứt điểm, tìm được sự cứu chuộc vĩnh cửu.
(*) Xem chú thích [19] Hê-bơ-rơ 9:8.
13 Vì nếu máu của bò đực, và dê đực, và tro của bò cái tơ rảy trên kẻ bị ô uế còn thánh hóa được cho sự thanh sạch của xác thịt,
14 thì máu của Đấng Christ, Đấng đã bởi Linh vĩnh cửu dâng chính mình không tì vết lên Đức Chúa Trời, sẽ tẩy sạch lương tâm các bạn khỏi các công việc chết, để phụng thờ Đức Chúa Trời hằng sống hơn biết bao!
15 Và vì điều này, Ngài là Đấng Trung Gian của giao ước mới, để bằng cái chết, cho việc cứu chuộc các vi phạm ở dưới giao ước thứ nhất, những người được kêu gọi có thể nhận lấy lời hứa của cơ nghiệp vĩnh cửu.
16 Vì di chúc ở đâu thì cần có cái chết của người lập di chúc.
17 Vì di chúc (*) được ấn định trên kẻ chết, vì sẽ vô hiệu chừng nào người lập di chúc còn sống.
(*) Từ “di chúc” chính là “giao ước”, còn từ “người lập di chúc” chính là từ “bên giao ước” hay “vật giao ước”. Sự trùng lặp ngôn ngữ này trong tiếng gốc lại vô hình chung làm trùng lặp luôn ý nghĩa tương đồng giữa di chúc và giao ước cứu rỗi: cũng như di chúc chưa thể có hiệu lực chừng nào người lập di chúc chưa chết, giao ước cứu rỗi cũng chưa thể có hiệu lực cứu rỗi được ai chừng nào vật giao ước (sinh tế) chưa bị hiến tế.
18 Do đó, ngay cả cái thứ nhất (*) cũng không được cung hiến khi không có máu.
(*) Chỉ giao ước thứ nhất.
19 Vì khi mọi mạng lệnh theo luật pháp đã được truyền phán bởi Mô-se cho toàn dân, ông lấy máu của bò con và của dê đực, với nước, và len đỏ tía, và bài hương, mà rảy nó lên cả cuộn sách lẫn toàn dân,
20 nói: “Đây là máu của giao ước mà Đức Chúa Trời đã truyền cho các ngươi.”
21 Tương tự, ông cũng rảy đền tạm và tất cả các vật dụng hầu việc với máu ấy.
22 Và hầu hết tất cả đều được thanh tẩy bằng máu theo luật pháp, và không có sự đổ máu thì không có sự tha thứ.
23 Thật vậy, những mô phỏng của các vật trên trời cần phải được thanh tẩy bằng những thứ này, nhưng chính các vật trên trời sẽ là bằng sinh tế tốt hơn những thứ này.
24 Vì Đấng Christ không vào các nơi thánh (*) được làm bằng tay, là các mô hình của thứ thực thụ, nhưng vào chính Thiên Đường, để bây giờ xuất hiện trước mặt Đức Chúa Trời vì chúng ta.
(*) Xem chú thích [19] Hê-bơ-rơ 9:8.
25 Cũng chẳng phải rằng Ngài sẽ dâng mình nhiều lần, như thầy tế lễ cả vào các nơi thánh (*) hằng năm bằng máu của vật khác,
(*) Xem chú thích [19] Hê-bơ-rơ 9:8.
26 vì Ngài sẽ phải chịu khổ nhiều lần rồi, từ khi tạo lập thế gian, nhưng bây giờ vào cuối các thời đại Ngài đã một lần hiện ra để cất bỏ tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình,
27 cũng theo như đã định cho loài người: chết một lần, sau đấy là Phiên Phán Xét.
28 Cũng vậy, Đấng Christ cũng đã được dâng một lần để mang tội lỗi của nhiều người, lần thứ hai sẽ hiện ra không tội lỗi cho việc cứu rỗi những người đang trông chờ Ngài.