Gióp – Chương 37
STT | Cựu Ước | Tân Ước |
---|---|---|
01 | Khởi Nguyên | Ma-thi-ơ |
02 | Xuất Hành | Mác |
03 | Lê-vi | Lu-ca |
04 | Dân Số | Giăng |
05 | Nhị Luật | Công Vụ |
06 | Giô-suê | Rô-ma |
07 | Thẩm Phán | I Cô-rinh-tô |
08 | Ru-tơ | II Cô-rinh-tô |
09 | I Sa-mu-ên | Ga-la-ti |
10 | II Sa-mu-ên | Ê-phê-sô |
11 | I Các Vua | Phi-líp |
12 | II Các Vua | Cô-lô-se |
13 | I Sử Ký | I Tê-sa-lô-ni-ca |
14 | II Sử Ký | II Tê-sa-lô-ni-ca |
15 | Ê-xơ-ra | I Ti-mô-thê |
16 | Nê-hê-mi | II Ti-mô-thê |
17 | Ê-xơ-tê | Tít |
18 | Gióp | Phi-lê-môn |
19 | Thi Ca | Hê-bơ-rơ |
20 | Châm Ngôn | Gia-cơ |
21 | Truyền Đạo | I Phi-e-rơ |
22 | Nhã Ca | II Phi-e-rơ |
23 | Ê-sai | I Giăng |
24 | Giê-rê-mi | II Giăng |
25 | Ca Thương | III Giăng |
26 | Ê-xê-chi-ên | Giu-đe |
27 | Đa-ni-ên | Mặc Khải |
28 | Ô-sê | |
29 | Giô-ên | |
30 | A-mốt | |
31 | Áp-đia | |
32 | Giô-na | |
33 | Mi-chê | |
34 | Na-hum | |
35 | Ha-ba-cúc | |
36 | Sô-phô-ni | |
37 | A-ghê | |
38 | Xa-cha-ri | |
39 | Ma-la-chi |
1 “Thật trái tim tôi run sợ bởi điều này,
Và lỏng ra khỏi chỗ nó.
2 Hãy nghe cho rõ âm vang của tiếng Ngài,
Và tiếng rền ra từ miệng Ngài!
3 Ngài dẫn nó toàn thiên hạ,
Và ánh sáng Ngài trên các tận cùng trái đất.
4 Theo sau nó là một giọng gầm vang,
Ngài vang tiếng uy nghiêm Ngài,
Và Ngài sẽ không kìm giữ chúng khi tiếng Ngài được nghe.
5 Đức Chúa Trời vang tiếng Ngài kỳ diệu,
Làm những việc vĩ đại mà chúng ta không biết được.
6 Vì Ngài phán với tuyết: ‘Xuống đất’;
Và mưa rào, và mưa tuôn đổ sức mạnh mình.
7 Ngài niêm phong bàn tay của mọi người,
Để mọi người nhận biết công việc Ngài.
8 Và các sinh vật vào hang,
Và cư ngụ trong chỗ ở mình.
9 Từ buồng (*), gió lốc đến,
Và từ những cơn rải rác (**) là cái lạnh.
(*) Xem chú thích [18] Gióp 9:9. Có lẽ là chỉ “phương nam”.
(**) Từ này xuất hiện một lần duy nhất toàn Kinh Thánh, tại chỗ này. Có lẽ là chỉ gió bắc, làm tan mây và đem khí lạnh đến.
10 Bởi hơi thở Đức Chúa Trời, Ngài ban băng tuyết;
Nước mênh mông đông cứng lại.
11 Thật bởi hơi ẩm Ngài làm trĩu nặng đám mây dày,
Ngài rải rác đám mây ánh sáng Ngài.
12 Và nó được lèo lái vòng quanh bởi chỉ dẫn Ngài,
Để chúng thực hiện mọi điều Ngài truyền cho chúng.
Trên mặt đất thế gian.
13 Dù để làm đòn roi, dù để cho đất Ngài, dù vì ơn thương xót,
Ngài cho nó đến.
14 Gióp hãy lắng tai điều này,
Hãy đứng và chiêm ngưỡng các công việc diệu kỳ của Đức Chúa Trời.
15 Anh có biết khi Đức Chúa Trời đặt để chúng
Và chiếu tỏa ánh sáng của mây Ngài?
16 Anh có biết về sự thăng bằng của mây,
Kỳ công của Đấng Toàn Tri?
17 Ai làm ấm quần áo anh lên
Khi đất im lìm bởi gió nam?
18 Anh có cùng Ngài trải rộng trời mạnh mẽ,
Như một tấm gương đúc?
19 Xin chỉ bảo chúng tôi: chúng tôi sẽ thưa gì với Ngài;
Chúng tôi chẳng trình bày được vì cớ sự tăm tối.
20 Có phải thông báo cho Ngài rằng tôi sẽ nói không?
Nếu một người nói, thì người sẽ bị nuốt chửng (*).
(*) Trong ngữ cảnh này, từ này có thể dịch là “bị choáng ngợp” (bởi sự phi thường của Đức Chúa Trời).
21 Và bây giờ, người ta sẽ chẳng nhìn được ánh sáng chói lòa trên mây,
Và gió đi qua và thổi sạch chúng.
22 Vàng đến từ phương bắc,
Uy nghiêm khủng khiếp cùng Đức Chúa Trời.
23 Đấng Toàn Năng, chúng ta chẳng tìm ra được Ngài,
Vĩ đại về quyền năng và công lý, và tràn đầy công chính,
Ngài không ức hiếp.
24 Vì vậy loài người kính sợ Ngài,
Ngài sẽ chẳng đoái đến những kẻ có tâm biết tuốt (*).”
(*) Chỉ những người tự cho mình là khôn ngoan đến mức không cần học hỏi gì nữa.