Xuất Hành – Chương 20

1 Và, Đức Chúa Trời phán tất cả những lời này, rằng:

2 “Ta là YHWH Đức Chúa Trời của con, Đấng đã đem con ra khỏi đất Ai Cập, khỏi nhà nô lệ.

3 Con chớ có thần nào khác trước mặt Ta.

4 Con chớ làm cho mình hình chạm (*) hay bất cứ hình dạng gì của những gì ở trên trời hay những gì ở dưới đất, hay những gì ở trong nước dưới đất.

(*) Từ gốc là “pecel”, tương đương với “idol”, có thể dịch là “thần tượng”, chỉ tất cả những gì nhận sự tôn thờ của con người, bao gồm thần tượng, tiền bạc, gia đình… bất cứ thứ gì chiếm vị trí của Chúa trong tâm trí con người. Những thứ không nhận sự tôn thờ, ví dụ như hai bức tượng chê-rúp bằng vàng đặt ở hai bên Nắp Thi Ân trong [02] Xuất Hành 25:18, những hình thêu chê-rúp mỹ thuật trên Trại Chứng Ước trong [02] Xuất Hành 26:1, hay con rắn bằng đồng trong [04] Dân Số 21:8-9, đều không phải là sự vi phạm mạng lệnh này, vì rõ ràng chúng đều được chính Chúa bảo làm. Chỉ đến khi những vật thể này bắt đầu được dùng làm đối tượng để thờ, thì chúng mới trở thành thần tượng, như con rắn đồng sau này bị người ta dâng hương cho, trở thành một cái thần tượng, nên bị vua Ê-xê-chia đập nát trong [12] II Các Vua 18:4.

5 Con chớ sấp mình xuống với chúng hay phụng thờ chúng. Vì Ta là YHWH Đức Chúa Trời của con, là Đức Chúa Trời ghen tuông (*), trừng trị sự đồi bại của cha ông lên con cháu, lên thế hệ thứ ba và lên thế hệ thứ tư những kẻ ghét Ta.

(*) Nhiều bản dịch tiếng Việt khác dịch từ “ghen tuông” này thành “kỵ tà” là hoàn toàn không chính xác. Xuyên suốt Kinh Thánh, tội thờ lạy thần tượng hay tà thần được coi như tội ngoại tình mà một tín đồ phạm trực tiếp với Chúa. Ý của câu này nói Ngài không phải là Đấng chấp nhận “vợ” mình đi đàng điếm với thần khác, mà có quyền danh chính ngôn thuận nổi ghen khi vợ mình không chung thủy và trừng trị tội ngoại tình này thẳng tay.

6 Và tỏ lòng nhân từ cho hàng nghìn thế hệ những người yêu mến Ta và vâng giữ các mạng lệnh Ta.

7 Con chớ lấy danh YHWH Đức Chúa Trời của con cách vô ích, vì YHWH sẽ chẳng coi là vô tội kẻ lấy danh Ngài cách vô ích (*).

(*) “Lấy danh YHWH Đức Chúa Trời cách vô ích” bao gồm: nhân danh Chúa mà thề dối hoặc dùng làm câu chửi thề, hoặc xưng mình là Cơ Đốc nhân mà sống một cách gian ác, hoặc các hình thức coi thường, xúc phạm và làm ô danh Chúa khác.

8 Hãy nhớ ngày Sa-bát (*), để tôn thánh nó.

(*) Từ tiếng Hê-bơ-rơ này có nghĩa là “nghỉ”, là từ ghép của 3 từ: shalom (bình an) – abba (cha) – bath/beth (nhà), tức “bình an trong nhà Cha”, là ngày dùng cho việc nghỉ ngơi và thờ phượng.

9 Sáu ngày con hãy lao động và làm tất cả công việc mình.

10 Còn ngày thứ bảy (*) là Sa-bát của YHWH Đức Chúa Trời của con, con không được làm bất cứ công việc gì: con, và con trai con, và con gái con, tôi trai con và tớ gái con, và thú vật của con, và khách lạ của con là người đang ở trong các cổng con.

(*) Xem chú thích [01] Khởi Nguyên 1:5. Ngày Sa-bát này do vậy bắt đầu từ lúc mặt trời lặn ngày thứ sáu đến lúc mặt trời lặn ngày thứ bảy hàng tuần.

11 Vì sáu ngày YHWH đã tạo dựng trời và đất, biển, và tất cả những gì ở trong chúng, và Ngài nghỉ vào ngày thứ bảy. Vì vậy, YHWH ban phước cho ngày Sa-bát và thánh hóa nó.

12 Hãy hiếu kính cha mình và mẹ mình, để các ngày của con được kéo dài trên đất mà YHWH Đức Chúa Trời của con ban cho con.

13 Con chớ giết người.

14 Con chớ ngoại tình.

15 Con chớ trộm cắp.

16 Con chớ làm chứng dối chống lại người lân cận mình.

17 Con chớ tham muốn nhà người lân cận mình. Con chớ tham muốn vợ người lân cận mình, hay tôi trai của người, hay tớ gái của người, hay bò của người, hay lừa của người, hay bất cứ gì thuộc về người lân cận mình.”

18 Và, cả dân chúng chứng kiến sấm và chớp, và tiếng kèn thổi, và núi bốc khói. Và khi dân chúng thấy thì họ run sợ và đứng ra xa.

19 Và họ nói với Mô-se: “Ông hãy nói với chúng tôi, và chúng tôi sẽ nghe; còn Đức Chúa Trời đừng phán với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất!”

20 Và Mô-se nói với dân chúng: “Đừng sợ, vì Đức Chúa Trời đến để thử anh em, để sự kính sợ Ngài sẽ ở trước mặt anh em, hầu cho anh em không phạm tội.”

21 Và dân chúng đứng ra xa, còn Mô-se đến gần bóng tối mù mịt (*) mà ở đó là Đức Chúa Trời.

(*) Có thể dịch: mây tối mù mịt. Lưu ý: xuyên suốt Kinh Thánh, mỗi khi Đức Chúa Trời đích thân xuất hiện (như khi ban Mười Mạng Lệnh, hoặc như khi Ngài hiện ra đối đáp với Gióp trong [18] Gióp), Ngài thường dùng một đám mây đen khổng lồ để che mình lại, để thứ nhất: tội nhân không bị tiêu diệt bởi hào quang khủng khiếp tỏa ra từ Ngài, và thứ hai: không ai dựng được hình tượng Ngài mà thờ lạy.

22 Và YHWH phán với Mô-se: “Con hãy nói với con cháu Is-ra-ên thế này: ‘Chính các con đã thấy rằng Ta đã phán với các con từ trời.

23 Các con chớ dựng thần bằng bạc nào bên Ta, cũng chớ làm cho mình thần bằng vàng nào.’

24 Con hãy lập cho Ta bàn thờ bằng đất và trên nó hiến tế tế lễ thiêu mình và tế lễ bình an mình, gia súc mình và thú vật mình. Ở mọi nơi mà Ta lưu giữ danh Ta, Ta sẽ đến với con và ban phước cho con.

25 Còn nếu con lập cho Ta bàn thờ bằng đá thì chớ lập nó bằng đá đẽo, vì con đã vung khí cụ mình lên nó và làm ô uế nó.

26 Và con chớ lên bàn thờ Ta bằng các bậc thang để sự lõa lồ của con không lộ ra trên nó.”