Ba Ngôi SDA
CHA, CON VÀ THÁNH LINH
Dưới sự cai trị của tên hôn quân A-háp, đất nước Is-ra-ên đã rơi vào tình trạng bội đạo trầm trọng. Bị xúi giục và thao túng bởi mụ hoàng hậu Giê-sa-bên, A-háp đã chuyển hướng cả nước sang thờ tà thần Ba-anh. Dân Chúa dần dần không còn nhận biết được giữa Đức Giê-hô-va và Ba-anh, ai mới là vị Đức Chúa Trời chân chính duy nhất của họ nữa.
Sau ba năm rưỡi cất bỏ mưa khỏi Is-ra-ên, cuối cùng Đức Giê-hô-va đã có được sự chú ý của dân Ngài, và Ngài sai nhà tiên tri Ê-li-gia đi đối mặt với A-háp và những tên thầy tế lễ tà thần Ba-anh của hắn. “Vừa thấy Ê-li-gia, A-háp nói: ‘Có phải ông là kẻ làm rối loạn Is-ra-ên chăng?'” I Các Vua 18:17. Đối với A-háp, kẻ đang mang rối loạn đến cho mọi người chẳng phải là hắn, mà lại là Ê-li-gia. “Ê-li-gia đáp: ‘Chẳng phải tôi làm rối loạn Is-ra-ên đâu, nhưng chính vua và nhà cha của vua, vì vua đã bỏ điều răn của Đức Giê-hô-va mà theo thần Ba-anh. Vậy bây giờ, vua hãy sai người đi triệu tập toàn dân Is-ra-ên lại bên tôi trên núi Cạt-mên, cùng với bốn trăm năm mươi tiên tri Ba-anh, và bốn trăm tiên tri A-sê-ra, là những kẻ ăn tại bàn Giê-sa-bên.'” I Các Vua 18:18-19.
Và rồi trước mặt toàn dân và đám tiên tri tà thần, Ê-li-gia nói: “Hãy đem đến đây hai con bò đực: chúng phải chọn một con cho mình, xả ra từng miếng, chất lên củi, nhưng không châm lửa. Còn ta, ta sẽ làm thịt con bò kia, đặt nó lên củi, cũng không châm lửa. Sau đó, hãy kêu cầu danh của thần các người đi! Còn ta, ta sẽ kêu cầu danh Đức Giê-hô-va. Thần nào đáp lời bằng lửa, chính là Đức Chúa Trời.” Toàn dân đều nói: “Lời ấy rất phải”. I Các Vua 18:23, 24.
Cuộc quyết đấu bắt đầu. Đám thầy tế lễ Ba-anh làm thịt con bò, kêu cầu Ba-anh, nhảy múa từ sáng đến trưa, mà chẳng thần nào đáp lời. Ê-li-gia chế nhạo chúng rằng: “Hãy la lớn lên đi! Vì Ba-anh là thần cơ mà! Có lẽ thần còn đang ngẫm nghĩ, hoặc bận đi ngoài, hoặc đang đi đường, hoặc đang ngủ và cần phải đánh thức chăng!” I Các Vua 18:27. Đám thầy tế lễ tà thần càng kêu gào lớn hơn, lôi cả gươm giáo ra rạch mình chảy máu đầm đìa theo thói tục của chúng, đến tận giờ dâng tế lễ thực phẩm buổi chiều vẫn chẳng có thần nào đáp lời hay quan tâm đến.
Và rồi, Ê-li-gia đứng dậy sửa soạn lại bàn thờ, đào mương chung quanh, chất củi, chặt con bò ra từng miếng và xếp lên trên. Ông ra lệnh múc đầy 4 vò nước lớn đổ lên củi và bàn thờ đến 3 lần, đến nỗi nước tràn đầy cả mương. Và, nhà tiên tri cầu nguyện: “Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Ab-ra-ham, I-sác, và Gia-cốp. Hôm nay xin cho mọi người biết rằng Ngài là Đức Chúa Trời… Xin đáp lời con, để dân này biết rằng chính Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, và Ngài khiến cho lòng họ quay trở lại.” I Các Vua 18:36, 37.
Lửa của Đức Giê-hô-va giáng xuống, thiêu đốt tế lễ toàn hiến, củi, đá, bụi, và rút sạch luôn cả nước trong mương. I Các Vua 18:38.
“Thấy vậy, tất cả dân chúng sấp mình xuống đất và tung hô: ‘Giê-hô-va chính là Đức Chúa Trời! Giê-hô-va chính là Đức Chúa Trời!'” I Các Vua 18:39.
Chỉ với một người, Đức Chúa Trời đã đánh bại toàn bộ đoàn quân tiên tri giả đông gần một nghìn tên và đem dân sự Ngài trở lại cùng Ngài. Kinh Thánh cho biết Ê-li-gia sau đó đã không phải trải qua cái chết mà được đem thẳng lên Thiên Đường, đến với sự sống vĩnh cửu. Ông chính là hình bóng cho thế hệ chiến binh cuối cùng của Chúa trong lịch sử nhân loại, được dấy lên trong linh của Ê-li-gia khi xưa để chiến đấu cho đến tận Ngày Tận Thế, chống lại sự bội đạo và thờ phượng sai lạc tràn lan, trả lại sự nhận biết chính xác danh tính của vị Đức Chúa Trời chân chính duy nhất cho toàn dân sự Ngài.
1. Kinh Thánh dạy rằng ai mới là vị Đức Chúa Trời chân chính duy nhất?
Giăng 17:3 Này là sự sống vĩnh cửu: rằng họ có thể nhận biết Cha là Ðức Chúa Trời chân chính duy nhất, và JESUS Christ là Đấng Cha sai đến.
Đây là lời từ chính miệng Chúa Jesus nói, thuộc Tân Ước, để không ai có thể ngụy biện được rằng danh tính của vị Đức Chúa Trời duy nhất khi từ Cựu Ước chuyển sang Tân Ước đã thay đổi. Không chỉ thế, Chúa Jesus còn thẳng thừng tuyên bố việc tiếp nhận chân lý này, rằng vị Đức Chúa Trời duy nhất ấy chính là Cha, là điều hệ trọng liên quan đến sự sống đời đời.
2. Đức Chúa Trời có phải Ba Ngôi không, hay là ai?
I Cô-rinh-tô 8:6 Nhưng đối với chúng ta thì chỉ có một Đức Chúa Trời là Cha.
Nhất quán xuyên suốt cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, trước khi, trong khi và sau khi Chúa Jesus đi lại trên đất, Kinh Thánh đều cho biết chỉ có một Đức Chúa Trời, và vị ấy chính là Cha. Trong Kinh Thánh cũng chỉ tồn tại thuật ngữ “Đức Chúa Cha”/”Đức Chúa Trời Cha” (God the Father); còn những thuật ngữ “Đức Chúa Con” (God the Son), “Đức Chúa Thánh Linh” (God the Holy Spirit), hay “Ba Ngôi” (Trinity) thì không hề xuất hiện dù chỉ một lần. Chỉ có những bản dịch Kinh Thánh tiếng Việt lỗi, do dịch giả tin nhận nhầm giáo lý Ba Ngôi khi dịch đã tự tiện chỉnh sửa thuật ngữ Kinh Thánh mà thôi.
Trong thời của các Sứ Đồ, giáo lý ấy vẫn chưa hề xuất hiện, mà phải mãi đến tận năm 325 sau Công Nguyên tại hội đồng Nicea – nhiều thế kỷ sau khi tất cả các sứ đồ đều đã chết sạch – nó mới được bịa ra bởi hội thánh Công Giáo La Mã Vatican.
Sở dĩ các bản Kinh Thánh tiếng Việt hay dịch những thuật ngữ như “Con” thành “Đức Chúa Con”; dịch “Thánh Linh” thành “Đức Chúa Thánh Linh” hay “Đức Thánh Linh”, là do các dịch giả Kinh Thánh người Việt đã vô tình tự tiện chèn tín lý Ba Ngôi của mình vào khi phiên dịch Kinh Thánh.
Một số người thâm chí còn biện luận rằng vì từ “Đức Chúa Trời” trong tiếng Hê-bơ-rơ là một từ số nhiều “Elohim”, nên Đức Chúa Trời phải có nhiều vị, mà không hề biết rằng trong tiếng Hê-bơ-rơ có phép đa số hóa danh từ, đơn thuần chỉ để nhấn mạnh, tôn trọng mà thôi. Ví dụ:
Xuất Hành 7:1 Và Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Hãy xem: Ta lập con làm Đức Chúa Trời (Elohim) đối với Pha-ra-ôn; còn A-rôn anh con sẽ làm nhà tiên tri của con.
Nhà tiên tri Môi-se có nhiều người không, hay rõ ràng là chỉ có một? Vậy mà từ số nhiều “Elohim” vẫn được sử dụng để chỉ ông. Đây là một trong những ví dụ kinh điển để minh chứng rằng trong tiếng Hê-bơ-rơ, không phải lúc nào việc đa số hóa danh từ cũng là để chỉ số nhiều, đặc biệt là khi đó là từ “Elohim”, được dùng để chỉ Đấng đáng được tôn kính nhất trên đời.
3. Vậy Chúa JESUS là ai?
Giăng 3:16 Vì Ðức Chúa Trời yêu thương thế gian thế này: đến nỗi đã ban Con Trai Độc Sanh của Ngài, để tất cả những ai tin vào Người thì không bị hư mất, mà có sự sống vĩnh cửu.
Ma-thi-ơ 16:15-17 Ngài (JESUS) bảo họ (các môn đồ): “Còn các con thì bảo Ta là ai?” Si-môn Phi-e-rơ trả lời, nói: “Ngài là Đấng Christ, Con Trai Đức Chúa Trời hằng sống.” Và JESUS trả lời, nói với cậu: “Phước cho con, Si-môn, con Giô-na! Vì chẳng phải thịt và máu đã bày tỏ cho con đâu, mà là Cha Ta ở trên trời.
Chúa JESUS là Con Trai Đức Chúa Trời, là người Con Trai ruột duy nhất do Ngài đích thân sinh ra theo đúng nghĩa đen của lời văn Kinh Thánh từ trước vô cùng, trước khi bất cứ gì được tạo dựng. Trái với loài người chúng ta, Đức Chúa Trời Toàn Năng không cần một Đức Chúa Trời Mẹ nào hỗ trợ cũng vẫn có thể sinh ra Con Trai Ngài như thường. Bất chấp việc có những người, mặc dù tin một trinh nữ có thể sinh một con trai mà không cần chồng, đã nhất quyết không chịu tin Đức Chúa Trời – là chính Đấng đứng sau phép màu ấy – có thể sinh một con trai mà không cần vợ, thậm chí còn nhạo báng vào năng lực ấy của Ngài.
Chính mối quan hệ Cha-Con ruột với Đức Chúa Trời là thứ mang lại cho Đấng Christ thần tính siêu việt như Cha Ngài, vì cũng như cha hổ sinh ra con sẽ là hổ, cha người sinh ra con sẽ là người, thì cha thần sinh ra con sẽ là thần. Đấng Christ là thần như Cha Ngài là thần chính vì Ngài là Con Ruột của Đức Chúa Trời, và là người Con Ruột duy nhất. Toàn vũ trụ chỉ có 2 Đấng này là thần mà thôi. Một Đấng nắm giữ cương vị Tối Cao “Đức Chúa Trời”, Đấng còn lại là Con Trai Ruột của Ngài, bình đẳng với Cha vì có cùng một bản chất với Ngài (như bạn và bố bạn là hai con người bình đẳng vậy), nhưng “Cha vĩ đại hơn Ta”, theo lời Đấng Christ phán trong Giăng 14:28, vì Cha vẫn là Nguồn Gốc của ngay cả Con Trai Ngài.
Nhiều người nhầm tưởng thần tính phải phụ thuộc vào độ cổ xưa của thời gian tồn tại, nhưng hoàn toàn không phải: nó lại phụ thuộc hoàn toàn vào việc bố đẻ của bạn là ai, có phải là thần hay không. Nếu Đức Chúa Trời ngay bây giờ lại sinh thêm một người con ngoài Chúa Jesus ra, người con ấy mặc nhiên là thần như Cha mình, bất chấp việc chỉ vừa mới ra đời.
4. Nếu Chúa JESUS là thần chứ không phải Đức Chúa Trời, thì tại sao có nhiều chỗ trong các bản dịch Tân Ước tiếng Việt lại nói Chúa JESUS là Đức Chúa Trời?
Trong tiếng Hy Lạp của bản gốc, từ “theon” và “theos” nếu đứng một mình thì hoàn toàn có thể chỉ đơn thuần nghĩa là “thần” mà thôi. Nhưng khi có tiền tố đích danh (tương đương với từ “the” trong tiếng Anh) ở trước, chúng chuyển nghĩa sang chỉ một vị thần cụ thể: “Đức Chúa Trời” (tương đương với “the God”).
Trong tiếng Anh, dù có tiền tố đích danh hay không, các dịch giả Anh ngữ cũng đều dịch hết là “God”. Cách dịch này thực ra không sai trong quy phạm tiếng Anh, nhưng gây khó phân biệt khi nào thì đang chỉ “Đức Chúa Trời”, khi nào thì đang chỉ “thần” nói chung. Đến khi các dịch giả tiếng Việt tham chiếu bản tiếng Anh để dịch Kinh Thánh sang tiếng Việt, quả nhiên đã bị nhầm lẫn và đánh đồng hết thảy các từ này về thành một từ “Đức Chúa Trời”. Điển hình như:
Giăng 1:1 “Lời (chỉ Chúa Jesus) ở với ton theon, và Lời là theos“ dịch đúng phải là “Lời ở với Đức Chúa Trời, và Lời là thần.” Thì lại bị dịch thành: “Ngôi Lời ở với Đức Chúa Trời (dịch đúng), và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời (dịch sai).”
Giăng 10:33 “Ông là con người mà cho mình là thần!” Thì lại bị dịch thành: “Ông là con người mà cho mình là Đức Chúa Trời!”
Đây là những chỗ dịch sai ngữ pháp tiếng Hy Lạp một cách kinh điển, chỉ vì các dịch giả vốn đã đang đi theo giáo lý Ba Ngôi nên vô tình không để ý. Một khi được đưa ra tham chiếu với bản tiếng gốc, những chỗ dịch sai này lập tức lộ rõ. Các dịch giả cũng chỉ là con người, và nếu có mắc sai sót thì cũng không có gì là lạ cả. Chúng ta nên thông cảm, và cảm tạ Chúa nhờ các đóng góp của họ, dù có sai sót, vẫn đã cứu được rất nhiều người.
5. Thế tại sao trong Ê-sai 9:5 lại gọi Đấng Christ là “Đức Chúa Trời Quyền Năng” và “Cha Đời Đời”?
Danh xưng “Đức Chúa Trời Toàn Năng” dịch đúng phải là “Thần Quyền Năng”, như đã giải thích ở trên. Trong tiếng Hê-bơ-rơ của Cựu Ước, từ “thần” và “Đức Chúa Trời” đều cùng là một từ “Elohim”.
Còn danh xưng “Cha Đời Đời”: để một người được gọi là “cha”, người ấy chỉ cần có con cái. Và quả thật, Chúa JESUS có rất nhiều con cái.
Hê-bơ-rơ 2:13 Rồi Ngài (Chúa JESUS) cũng phán: “Này, Ta cùng với con cái mà Đức Chúa Trời đã ban cho Ta.”
I Cô-rinh-tô 15:45 Như có lời chép: “Người đầu tiên là A-đam đã trở nên một hữu thể sống, nhưng A-đam sau cùng (Chúa JESUS) là thần linh ban sự sống.
Một trong những tên gọi của Chúa JESUS chính là A-đam (con người) thứ hai, hay A-đam sau cùng. Vì cũng giống như A-đam đầu tiên là cha của cả loài người sa ngã, có những người con sinh ra theo bản tính sa ngã của ông, thì A-đam sau cùng cũng là cha của cả nhân loại mới, có những người con sinh (lại) ra theo bản tính thiên thượng của Ngài. Đức Chúa Trời đã sinh lại chúng ta một lần thứ hai qua Chúa JESUS Con Trai Ngài. Đây mới là cách hiểu chính xác danh xưng “Cha đời đời”, chứ Kinh Thánh hoàn toàn không có ý muốn nói Chúa JESUS là chính Cha Ngài.
6. Vậy khi Chúa JESUS nói: “Ta với Cha là một” trong Giăng 10:30, ý Ngài là gì?
Giăng 17:22 (Chúa JESUS đang cầu nguyện) Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho Con, để họ trở nên một như Chúng Ta là một.
Sự “trở nên một” của các môn đồ được Chúa JESUS kỳ vọng là sẽ như sự “một” giữa Cha Ngài và Ngài. Vậy câu hỏi ở đây là: khi các môn đồ trở nên hiệp một, muôn người họ có nhập vào thành một người không, hay mỗi người vẫn là những cá thể riêng biệt, nhưng có chung một tâm trí, một mục đích, một linh?
Đây mới là cách hiểu đúng của câu “Ta với Cha là một”: Chúa JESUS và Cha Ngài có cùng một linh, cùng một phẩm cách, một tâm trí, một mục đích. Không bao giờ có mâu thuẫn gì xảy ra giữa Ngài với Cha Ngài.
7. Chẳng phải Hê-bơ-rơ 1:8 cho biết Chúa Jesus là Đức Chúa Trời hay sao?
Hê-bơ-rơ 1:8 Nhưng nói về Con thì có lời phán: “Lạy Đức Chúa Trời…”
Nếu chỉ trích dẫn vế câu ra khỏi ngữ cảnh của nó và gọt ngắn lại thì có vẻ như câu Kinh Thánh đang nói rằng Con là Đức Chúa Trời thật, nhưng chúng ta thử nhét câu Kinh Thánh này vào ngữ cảnh đầy đủ, cả câu 8 lẫn câu 9, xem có thật như vậy không.
Lưu ý Hê-bơ-rơ 1:8-9 chính là trích dẫn của Thi Ca 45:6-7:
6 Ngôi của Ngài, Đức Chúa Trời, là mãi mãi và vĩnh viễn,
Vương trượng vương quốc Ngài là vương trượng công bằng.
7 Người yêu sự công chính và ghét sự gian tà.
Bởi vậy Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của Người
Đã xức cho Người dầu vui mừng hơn các bạn Người.
Hãy xem kết luận “Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của Người đã xức cho Người dầu vui mừng hơn các bạn Người”. Kết luận này là đúc kết của một số ý ở ngay phía trên. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua chữ “BỞI VẬY” ở đầu nó.
Vậy những ý mà từ đó kết luận này được rút ra là gì? 1: “Người (Đấng Mê-si-a) yêu sự công chính và ghét sự gian tà”, và 2: “Vương trượng vương quốc Ngài (Đức Chúa Trời) là vương trượng công bằng”. Chính vì hai điều này nên nhân vật “Đức Chúa Trời” mới xức dầu cho nhân vật “Người” được nói đến ở cuối câu 7. Vậy thì hai nhân vật này có thể là một được không, hay rõ ràng phải là hai chủ thể khác nhau, một bên xức dầu cho bên kia?
Bằng cách nhét câu văn trở lại vào ngữ cảnh, chúng ta có thể thấy rõ: câu 8 là tác giả đầu tiên thưa với Đức Chúa Trời trước, rồi đến câu 9 là nói về Đấng Christ sau. Hai câu này hợp lại cung cấp cho chúng ta thêm thông tin về Con. Đoạn mở đầu “Nhưng nói về Con thì có lời phán” là chỉ tổng thể điều cả 2 câu này hợp lại nói, chứ hoàn toàn không có nghĩa chủ thể “Đức Chúa Trời” trong lời thưa gửi ngay sau đó phải là “Con” luôn.
8. Còn Thánh Linh, trước hết, Thánh Linh là gì?
Rô-ma 8:9 Nhưng nếu Thánh Linh của Đức Chúa Trời thực sự ở trong anh em thì anh em không sống theo xác thịt, mà sống theo Thánh Linh, còn ai không có Thánh Linh của Đấng Christ thì người ấy chẳng thuộc về Ngài.
I Cô-rinh-tô 2:11 Ai biết được tư tưởng của con người, nếu không phải là linh ở trong chính người ấy? Cũng vậy, không ai biết được ý tưởng của Đức Chúa Trời, ngoài Thánh Linh của Đức Chúa Trời.
Thánh Linh là linh của Đức Chúa Trời và cũng là linh của Đấng Christ Con Trai Ngài.
Trong Kinh Thánh, mối quan hệ giữa “linh” của một người với người ấy cũng hoàn toàn tương tự mối quan hệ giữa “linh” của Đức Chúa Trời và Đấng Christ với họ. Cũng như “linh” của một người không phải là một ai khác ngoài người ấy, thì “linh” của Đức Chúa Trời và Đấng Christ cũng không phải là một kẻ thứ ba nào đó ngoài họ ra.
9. Vậy Thánh Linh là ai?
II Cô-rinh-tô 3:17 Chúa là Thánh Linh. Nơi nào có Thánh Linh của Chúa, nơi đó có tự do.
II Cô-rinh-tô 13:5 Anh em không nhận biết rằng JESUS Christ đang ở trong anh em sao? Trừ phi anh em không đạt tiêu chuẩn.
Thánh Linh là chính Chúa JESUS đến ngự vào trong chúng ta. Thánh Linh không phải một quầng năng lượng vô tri vô giác, nhưng cũng không phải là một kẻ thứ ba nào đó vừa không phải Cha, cũng vừa không phải Con, nhưng bằng cách nào đó vẫn là Đức Chúa Trời như giáo lý Ba Ngôi vẫn dạy.
Thêm vào đó, Chúa JESUS còn phán thế này:
Giăng 14:10 Con không tin rằng Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta sao?
Tức là: Ngài luôn luôn có Cha Ngài ở trong Ngài. Vì thế khi chúng ta tiếp nhận Chúa JESUS vào linh hồn mình, chúng ta nhận được cả Ngài lẫn Cha Ngài. Đó mới là lý do vì sao Đấng Christ được gọi là Em-ma-nu-ên, nghĩa là “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta”: trong suốt hành trình Ngài đi lại trên đất, chính Đức Chúa Trời Cha Ngài đã ở trong Ngài mà đi lại giữa dân sự Is-ra-ên. Mọi lời Ngài nói, mọi việc Ngài làm, đều là Cha Ngài ở trong Ngài đang phán, đang làm qua Ngài.
Giăng 14:10 Những lời Ta nói với các con không phải Ta tự nói, nhưng chính Cha là Đấng ở trong Ta đang làm những việc của Ngài.
Đây cũng đồng thời là lý do vì sao Thô-mas, một trong mười hai sứ đồ, khi tận mắt nhìn thấy Chúa sống lại đã thốt lên: “Chúa của con! Và Đức Chúa Trời của con!” Ông không có ý nói Chúa Jesus là Đức Chúa Trời như nhiều người nhầm tưởng – vì chỉ có một Đức Chúa Trời là Cha Ngài – mà có ý bày tỏ sự khuất phục và tiếp nhận chân lý mà Chúa Jesus không lâu trước đó vừa truyền tải cho ông: rằng Đức Chúa Trời Cha Ngài vẫn luôn ở trong Ngài bấy lâu nay. Và Thô-mas đang quỳ xuống xưng nhận cả 2 Đấng.
10. Thế còn Đấng An Ủi “khác” trong Giăng 14:16 thì sao? Chẳng phải Đấng An Ủi là một Đấng “khác” với Chúa JESUS?
Giăng 14:17,18 Các con biết Ngài, vì Ngài đang ở bên các con, và sẽ ở trong các con. Ta sẽ không để các con mồ côi đâu, Ta sẽ đến với các con.
Giăng 14:23 Ai yêu mến Ta thì sẽ vâng giữ lời Ta, Cha Ta sẽ yêu thương người. Chúng Ta sẽ đến cùng người và ở với người.
Chúa JESUS có thói quen nói về chính Ngài như một người thứ ba không phải Ngài vậy, ví dụ như khi Ngài nói đến nhân vật “Đấng Chăn Chiên Nhân Lành”. Khi nói về “Đấng An Ủi” cũng vậy. Chúng ta chỉ cần đọc xuống các câu dưới, chính Chúa JESUS quả nhiên đã nói thẳng cho chúng ta biết Đấng An Ủi “khác” ấy chính là ai.
Ở câu 17: Đấng đang ở bên các môn đồ hiển nhiên là chính Chúa JESUS.
Ở câu 18: Đấng sẽ đến với các môn đồ là “Ta”.
Ở câu 23: “Chúng Ta” – mà ở đây là “Ta” và “Cha Ta” – sẽ đến và ở cùng người yêu mến và vâng lời Chúa.
Việc chúng ta cần phải hiểu rằng Thánh Linh chính là Chúa JESUS với Cha Ngài ở trong là vô cùng quan trọng: chính Đấng đã đánh bại Ma Quỷ chỉ với một thân thể người phàm như của chúng ta, thấu hiểu thế nào là bị cám dỗ, đau đớn, đói khát, thống khổ, chính Ngài là Đấng đang ở trong chúng ta, ban cho chúng ta chiến thắng trước Ma Quỷ và mọi cám dỗ của hắn tương tự như chiến thắng của Ngài.
Trong Kinh Thánh, tùy vào từng ngữ cảnh, từ “Thánh Linh” có thể đang chỉ Cha, hoặc Con, hoặc cả hai. Ví dụ: “Thánh Linh” ngự trên Chúa Jesus tại lễ báp-tem của Ngài thì sẽ chỉ đơn thuần là Cha Ngài mà thôi, nhưng “Thánh Linh” mà sau đó ngự trên các môn đồ trong sách Công Vụ, thì sẽ là Con, với Cha Ngài ở trong Ngài.
11. Thế còn biết bao câu nhắc đến “Cha”, “Con”, và “Thánh Linh” thì sao? Tiêu biểu như câu Ma-thi-ơ 28:19? Chúng không phải là bằng chứng cho giáo lý ba ngôi sao?
Ma-thi-ở 28:19 Vậy hãy đi, môn đồ hóa muôn dân, báp-tem cho họ nhân danh Cha, và Con, và Thánh Linh.
Đầu tiên, hãy xem câu này cho chúng ta biết những gì, và KHÔNG cho chúng ta biết những gì.
Nó cho chúng ta biết:
– Có tồn tại “Cha”.
– Có tồn tại “Con”.
– Có tồn tại “Thánh Linh”.
Nó KHÔNG cho chúng ta biết:
– Mối quan hệ giữa “Cha”, “Con” và “Thánh Linh” là thế nào.
– Ai là Đức Chúa Trời.
– Thánh Linh có phải Đức Chúa Trời không. Chúng ta còn không thể kết luận được nổi liệu ngay cả CHA có phải là Đức Chúa Trời hay không ở đây.
– Từ “Đức Chúa Trời” thậm chí còn không xuất hiện trong câu này!
Việc trên đời này có tồn tại Cha, có tồn tại Con, và có tồn tại Thánh Linh, hoàn toàn không phải là điều phải bàn cãi. Nhưng chỉ có từng đó mà đòi nói vống lên rằng Cha, Con và Thánh Linh là 3 Đấng riêng biệt, đồng đẳng đồng vĩnh hằng, mỗi vị đều là Đức Chúa Trời, ba vị hợp lại thành một Đức Chúa Trời, thì rõ ràng là TỰ TƯỞNG TƯỢNG ra vô số thứ mà câu văn không hề nói.
Đây chính là lý do vì sao tất cả các câu chỉ đơn thuần NHẮC ĐẾN “Cha”, “Con”, và “Thánh Linh” và các công tác được thực hiện qua từng chủ thể, đều hoàn toàn không hề minh chứng cho giáo lý Ba Ngôi, và không thể được sử dụng làm bằng chứng cho giáo lý này. Chỉ có cách diễn giải ngộ nhận tự tưởng tượng ra những ý mà câu văn không hề nói là dẫn người ta đến giáo lý ấy mà thôi.
Thêm vào đó, nhiều bản dịch Kinh Thánh tiếng Việt còn tự tiện thêm chữ “Đức” vào trước các từ “Thánh Linh”. Việc thêm này ở nhiều chỗ sẽ không sai, vì Thánh Linh đúng là một Đấng cụ thể, là Chúa Jesus với Cha Ngài trong Ngài. Tuy nhiên ở những chỗ như câu Ma-thi-ơ 28:19 này, việc tự ý thêm chữ “Đức” vào trước “Thánh Linh” sẽ dẫn đến cách hiểu sai lạc hoàn toàn rằng Thánh Linh là một vị thứ ba ngoài Cha và Con ra. Việc áp dụng thủ đoạn lý luận trên để tự ý thêm từ vào Kinh Thánh nhằm cổ súy cho tà thuyết Ba Ngôi chính là một thủ đoạn tối hiểm độc và láu cá của Ma Quỷ, mà chúng tôi vô cùng hân hạnh được vạch mặt tại đây.
Bản dịch Kinh Thánh Đa Số tiếng Việt xin được loại bỏ trò tự tiện thêm thắt từ ngữ vào Lời Chúa này, và để nguyên tất cả các từ “Thánh Linh” là “Thánh Linh” như bản thảo gốc.
12. Trong Khải Huyền, từ “thánh thay” được sử dụng 3 lần liên tiếp để chỉ đến Đức Chúa Trời. Đó có phải là bằng chứng cho thấy Đức Chúa Trời là ba ngôi không?
Luận điểm ấy đang nói đến câu này:
Khải Huyền 4:8 “Thánh thay, thánh thay, thánh thay, Chúa là Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng đã có, hiện có và đang đến.”
Vì sao nói “thánh thay” ba lần thì lại có nghĩa là có 3 ngôi?! Ba lần “thánh thay” không thể cùng dâng lên một Đức Chúa Trời là Cha được sao? Khi loài người tung hô “hoàng thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế”, thì tức là đang có 3 hoàng thượng?
Trên thực tế, ngay trong câu 8 này, Kinh Thánh đã cho biết tại sao từ “thánh thay” được dùng 3 lần: vì Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của quá khứ, hiện tại, và tương lai (đã có, hiện có và đang đến).
13. Trứng gà có ba phần: lòng đỏ, lòng trắng, vỏ trứng; nước cũng có ba thể: thể rắn, thể lòng, thể khí… Những điều đó liệu có thể được dùng làm bằng chứng rằng Đức Chúa Trời phải có ba ngôi không? Kinh Thánh nói gì về những người sử dụng những lý luận như vậy để phủ nhận Đức Chúa Trời chân chính duy nhất, Cha chúng ta?
Rô-ma 1:21, 22 Vì mặc dù đã biết Đức Chúa Trời, họ vẫn không chịu tôn cao Ngài là Đức Chúa Trời và không tạ ơn Ngài, nhưng cứ suy luận viển vông. Lòng dạ ngu muội của họ đã trở nên tăm tối. Họ tự xưng mình là khôn ngoan, nhưng đã trở nên điên dại.
Nhân tiện: một năm có 4 mùa; bàn tay có 5 ngón; Chê-ru-bim có 6 cánh; cầu vồng có 7 màu; và cơ thể con người có 13.6 tỷ tế bào. Vậy vì sao lại nhất thiết phải là ba Đức Chúa Trời mà không phải 4, 5, 6, 7, hay 13.6 tỷ Đức Chúa Trời?
Những người kiên quyết chối bỏ chân lý đến cùng bất chấp mọi bằng chứng, sẽ tiếp tục con đường suy luận viển vông của mình để đi hết từ ngụy biện này sang ngụy biện kia, ngay cả khi họ trước hết không hề chối cãi được bất cứ bằng chứng nào trong đống bằng chứng đang chất núi lên trước mặt mình, để bám trụ bằng được vào những tà thuyết sai lạc và dối trá, để hủy diệt cho bằng được linh hồn của chính mình và của tất cả những người mình có thể tiếp cận. “Lòng dạ ngu muội của họ đã trở nên tăm tối”, “tự xưng mình là khôn ngoan, nhưng đã trở nên điên dại”, chính là như vậy. Không một ai trong chúng ta là những người đã được tiếp nhận chân lý rõ ràng và thẳng thừng cần phải nhập bọn với bọn chúng. Chúng ta hoàn toàn có thể chọn lấy ánh sáng.
14. Nếu Cơ Đốc nhân chấp nhận giáo lí Ba Ngôi, và tin rằng ngoài Cha và Con ra, còn có một người thứ ba nữa, điều lô-gíc tiếp theo sẽ xảy ra là gì?
Trích sách “Đức Chúa Trời Ba Ngôi”, tác giả Jerry A. Moon, John W. Reeve, Woodrow W. Widden II thuộc hội thánh Seventh-day Adventist – một hội thánh Tin Lành/Cải Chánh giáo lấy Kinh Thánh làm tôn chỉ – trang 273:
“Sự hợp nhất về bản chất và phẩm cách của ba Đấng trong Đức Chúa Trời dấy lên câu hỏi rất hợp lý về việc cầu nguyện, ca ngợi và thờ phượng… Nhưng việc cầu nguyện trực tiếp với Thánh Linh thì sao? Mặc dù chúng ta không có ví dụ nào hay mệnh lệnh nào để cầu nguyện với Thánh Linh trong Kinh Thánh, việc làm vậy, về mặt nguyên tắc, có vẻ được Kinh Thánh ngầm ủng hộ… Việc dân Chúa có thể cầu nguyện và thờ phượng Thánh Linh có vẻ là điều lô-gic.”
Điều chúng ta có ở đây, là ba trong số những lãnh đạo của một trong các giáo hội Tin Lành tự xưng là ráo riết làm theo Kinh Thánh nhất ngày nay, tư vấn dân sự của hội thánh rằng họ có thể cầu nguyện lên, thậm chí thờ phượng một bên thứ ba mà họ tin rằng vừa không phải Cha, cũng vừa không phải Chúa Jesus con trai Ngài, bất chấp việc chính họ thừa nhận điều đó HOÀN TOÀN KHÔNG CÓ CƠ SỞ KINH THÁNH.
Vì sao họ lại đưa ra lời tư vấn ấy? Rất dễ hiểu, họ đã bị đầu độc bởi cái giáo lý Ba Ngôi trên. Đúng là, nếu chúng ta chấp nhận giáo lý ấy, việc cầu nguyện và thờ phượng “Đức Chúa Thánh Linh” cũng là điều vô cùng hợp lý thôi.
15. Nếu chúng ta chấp nhận cái giáo lý Ba Ngôi này, nhưng không thờ phượng hay cầu nguyện với ai ngoài Cha và Chúa Jesus thì có được không?
Giăng 4:23 Những người thờ phượng chân thật sẽ thờ phượng Cha bằng tâm linh và chân lý.
Chúa chưa bao giờ chấp nhận cho các con Ngài thỏa hiệp với những giáo lý trái Kinh Thánh cả. Chưa nói đến việc làm sai lệch chân lý, chỉ nói riêng việc thờ phượng của Cơ Đốc nhân vốn luôn được cử hành bằng tâm linh và chân lý không thôi: nếu chúng ta chấp nhận một người thứ ba không phải Cha cũng không phải Con làm Thần của mình, tâm linh ta đã tự động thờ phượng nhân vật này luôn rồi.
Đây là định luật bất di bất dịch của việc thờ phượng, áp dụng cho tất cả mọi thứ trên đời: bất kỳ cái gì mà ta coi là Đức Chúa Trời, hay coi là Tối Cao trong tâm trí mình, đều tự động nhận lãnh sự thờ phượng của ta. Dù là thần tượng, hay sự nghiệp, hay tiền tài, hay danh vọng, hay cái gì đi chăng nữa.
16. Giả sử tâm linh chúng ta thờ một người thứ ba vừa không phải Cha cũng vừa không phải Chúa Jesus, trong cả vũ trụ này, kẻ nào là kẻ sẽ lập tức nhảy vào vui hưởng sự thờ phượng ấy?
Ma-thi-ơ 4:8, 9 Ma Quỷ lại đem Ngài lên đỉnh núi cao, và chỉ cho Ngài thấy tất cả các vương quốc trên thế gian với sự huy hoàng của chúng, và nói: “Nếu ngươi sấp mình thờ lạy ta, ta sẽ cho ngươi tất cả những thứ này.”
Trong cả vũ trụ, chỉ có một kẻ không phải là Đức Chúa Trời mà lại thèm muốn địa vị của Ngài và muốn nhận lãnh sự thờ lạy mà thôi. Thêm một định luật nữa trong việc thờ phượng: mọi sự thờ phượng nằm ngoài khuôn khổ Kinh Thánh, đều tự động bị Satan nhảy vào thụ hưởng. Và trong cả Kinh Thánh, các thiên sứ, các thánh đồ cũng như các sinh vật chỉ thờ phượng duy nhất Đức Chúa Trời một cách trực tiếp, hoặc gián tiếp thông qua thờ phượng Chúa Jesus Con Trai Ngài mà thôi (Đấng Ngự trên Ngôi và Chiên Con – Khải Huyền 5:13), không hề có sự thờ phượng bất cứ một bên thứ ba nào khác ngoài họ nữa.
Có quá nhiều lợi ích cho Satan trong việc lừa dối chúng ta tin vào cái giáo lý Ba Ngôi không hề có trong Kinh Thánh này. Hắn vừa nhận được sự cầu nguyện, vừa nhận được sự thờ phượng, vừa có thể giả mạo “người thứ ba” để lừa dối và thao túng con người, thậm chí thực thi cả những phép màu dấu lạ để lôi kéo đông người đi lạc lối.
17. Vậy việc tiếp nhận giáo lý Ba Ngôi vi phạm trực tiếp mạng lệnh nào của Đức Chúa Trời?
Xuất Hành 20:3 Con chớ có thần nào khác trước mặt Ta.
Rất may là chúng ta được cứu nhờ ăn năn tin nhận và đầu phục Chúa JESUS chứ không phải nhờ tuân giữ luật pháp, nên vẫn có nhiều người vô tình vi phạm mạng lệnh này vẫn được cứu, vì họ chưa bao giờ có cơ hội tìm hiểu, chỉ có thể hết lòng bước theo Chúa trong lượng ánh sáng mà mình nhận được mà thôi.
18. Tuy nhiên, nếu đã có cơ hội tìm hiểu rồi mà không tiếp nhận chân lý, cố chấp tin theo điều giả dối và cố tình vi phạm mạng lệnh của Đức Chúa Trời, thì có được cứu không?
II Tê-sa-lô-ni-ca 2:9, 10 Nhờ tác động của Sa-tan, kẻ gian ác sẽ đến với tất cả quyền năng cũng như những phép màu, dấu lạ giả dối; nó dùng mọi mưu chước gian ác để lừa gạt những kẻ hư mất, vì họ không tiếp nhận tình yêu chân lý để được cứu rỗi.
Xin hãy đọc cả phân đoạn lên xem có đúng nó đang nói về chính thế lực Anti-Christ, tức hội thánh Công Giáo La Mã Vatican, và những người không tiếp nhận tình yêu chân lý mà ngoan cố bám lấy các tà thuyết của nó không. Tà thuyết Ba Ngôi đúng là đã được sáng tác ra bởi tổ chức này tại hội đồng Nicea vào năm 325 sau Công Nguyên.
Giáo lý hội thánh Công Giáo (The Catechism of the Catholic Church), 234:
Bí ẩn Đức Ba Ngôi chí thánh là bí ẩn tâm điểm của đức tin và đời sống Cơ Đốc. Đó là bí ẩn của Đức Chúa Trời trong chính Ngài. Nó vì vậy là cội nguồn của tất cả các bí ẩn khác của đức tin, là ánh sáng chiếu rọi chúng. Nó là giáo lý cơ bản nhất và trọng yếu nhất trong “hệ thống chân lý của đức tin”.
Tín điều Athanasian (Athanasian Creed):
“Đây là đức tin Công Giáo, chúng ta thờ một Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Trời Ba Ngôi và Ba Ngôi hợp nhất, mà không nhầm lẫn giữa các Đấng và không phân chia bản thể; vì Đức Chúa Cha là một Đấng, Đức Chúa Con là một Đấng, Đức Chúa Thánh Linh là một Đấng, nhưng địa vị Đức Chúa Trời của Đức Cha, Đức Con, Đức Thánh Linh là một, vinh quang như nhau, cùng uy nghi đến đời đời.”
Đây chính là vị thần được thờ phượng tại Vatican. Được gọi là “bí ẩn Đức Ba Ngôi chí thánh”, hay còn được biết đến là khái niệm “Đức Chúa Trời Cha, Đức Chúa Trời Con, Đức Chúa Trời Thánh Linh, ba trong một và một trong ba.” Nếu bạn không hiểu thế tức là như thế nào, đừng ngạc nhiên, bởi khái niệm ấy vốn không được thiết kế để hiểu. Đó là đặc điểm của Babylon – lộn xộn.
19. Ba Ngôi của hội thánh SDA có khác gì so với Ba Ngôi của Vatican không?
Một số người SDA Hiện Đại tin theo Ba Ngôi thường hay lý luận rằng Ba Ngôi của họ khác với Ba Ngôi của tòa thánh Công Giáo La Mã Vatican. Nhưng đây là bằng chứng cho thấy giáo lý Ba Ngôi của đôi bên là HOÀN TOÀN GIỐNG Y HỆT NHAU:
Phía bên trên bên trái là hình minh họa giáo lý Ba Ngôi từ quyển sách “Đức tin Công Giáo của tôi” bởi giám mục Louis LaRavoire Morrow.
Phía bên dưới bên phải là hình minh họa giáo lý Ba Ngôi trong “The New Pictorial Aid” bởi Frank Breaden, trang 75, bán tại trung tâm sách Cơ Đốc Phục Lâm (Adventist Book Center – ABC).
Có thể thấy ngay, cả hai hình này đều hoàn toàn tương đồng về mặt nội dung, chỉ khác mỗi phần trang trí và màu sắc mà thôi: Cha ≠ Con, Con ≠ Thánh Linh, Thánh Linh ≠ Cha, thế nhưng Cha = Đức Chúa Trời, Con = Đức Chúa Trời, Thánh Linh = Đức Chúa Trời. Đây chính xác là vị thần Ba Ngôi “mầu nhiệm lắm, không thể hiểu được đâu” của Con Thú Thứ Nhất trong Khải Huyền 13.
20. Kinh Thánh có nói rõ vị thần của Vatican, tức con thú thứ nhất trong Khải Huyền, là ai không?
Khải Huyền 13:4 Người ta thờ lạy con rồng vì nó đã ban thẩm quyền cho con thú.
Khải Huyền 12:9 Con rồng lớn bị ném xuống, tức con rắn xưa, được gọi là Ma Quỷ hay Satan, kẻ lừa dối cả nhân loại.
Thần mà tất cả những kẻ thuộc về Con Thú thờ lạy không phải là Cha chúng ta, mà trái lại chính là Satan, dù họ có biết điều đó hay không.
Cái khái niệm về một ông thần to gấp 3 lần Cha chúng ta, do Ngài và hai vị nữa to tương đương hợp lại thành này, dĩ nhiên không hề có trong Kinh Thánh, bởi mãi đến hội đồng Nicaea năm 325 sau Công Nguyên – mấy trăm năm sau khi các Sứ Đồ đã chết sạch – nó mới được ra đời. Trên thực tế, chỉ có một kẻ trong cả vũ trụ đủ xấc láo để xưng mình là to hơn cả Đức Chúa Trời mà thôi. Quả nhiên, đến Khải Huyền 13:4 thì Kinh Thánh đã nói thẳng ra cái thần mà tất cả những kẻ đi theo Con thú thờ lạy ấy, không ai khác chính là con rồng Satan.
Làm sao mà những người bị lừa cho tin nhận phải giáo lý Ba Ngôi này còn có thể được Chúa tính là nằm trong Hội Thánh Thật của những người “vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời và có Lời Chứng của Chúa Jesus” được cơ chứ?
21. Con số144.000 người được đóng ấn của Đức Chúa Trời có phải là một con số tượng trưng không, hay là 144.000 theo đúng nghĩa đen?
Trong thư gửi gia đình Hastings chia buồn với họ sau khi bà Hastings vừa mất, bà Ellen White viết như sau:
“Tôi đã thấy bà ấy [bà Hastings] đã được đóng ấn và sẽ trỗi dậy cùng tiếng phán của Đức Chúa Trời và đứng trên đất, và sẽ ở cùng nhóm 144,000. Tôi đã thấy chúng ta không cần khóc thương cho bà ấy, bà ấy sẽ được nghỉ ngơi trong thời kỳ ngặt nghèo, và tất cả những gì mà chúng ta cần phải khóc thương là cho chính tổn thất của chúng ta trong việc mất đi sự đồng hành của bà ấy. Tôi thấy cái chết của bà ấy sẽ kết thúc tốt đẹp.”
<Selected Messages quyển 2, trang 263> Thư số 10, 1850>
Lá thư cho biết bà Hastings, một tín hữu Cơ Đốc Phục Lâm ngày thứ bảy mất vào năm 1850 LÀ MỘT THÀNH VIÊN CỦA NHÓM 144,000 người. Điều đó cho thấy nhóm người mang ấn của Đức Chúa Trời trên trán này đã bắt đầu được hình thành ngay từ khi công tác rao giảng sứ điệp ba thiên sứ bắt đầu được triển khai, trước năm 1850. Và theo bà White, đó là con số chính xác 144,000 theo nghĩa đen chứ không phải một con số tuợng trưng.
Câu hỏi nhóm 144,000 này là ai, có thực sự là một con số 144,000 theo nghĩa đen không đã được dấy lên từ lâu, và Willy C. White, con trai của Ellen White, đã trả lời trong thư như sau.
“Giờ đến câu hỏi: Bà White có dạy rằng những người đã chết trong sứ điệp từ 1844 và là những người được nói rằng “Từ nay trở đi, phước cho những người chết là chết trong Chúa”, rằng họ sẽ là thành viên của nhóm 144,000?”
“Tôi có thể đảm bảo với bạn, người anh em của tôi, rằng đó đã là niềm tin và giáo lý của Ellen G. White. Rất nhiều lần tôi đã nghe bà ấy tuyên bố điều ấy, và tôi còn đang sở hữu một lá thư gửi người anh em Hastings người được nhắc đến trong trang 237 của quyền Life Sketches mà bà ấy nói rất thẳng thừng rằng người vợ mới mất của ông ấy sẽ là một trong những thành viên của nhóm 144,000.”
“Trong một lá thư gần đây nhận từ một người anh em ở Reno, Nevada, có trích dẫn một lời tuyên bố trong sách của trưởng lão Loughborough tìm thấy trong trang 29, có báo cáo rằng bà White đã nói: “Những ai chết trong đức tin sẽ nằm trong nhóm 144,000. Tôi chắc chắn về việc này.”
“Và tôi xin làm chứng, người anh em của tôi, rằng điều đó hài hòa một cách hoàn hảo với các ghi chép, các phát ngôn và các dạy dỗ của bà ấy trong suốt toàn bộ những năm mục vụ của bà.”
<Letter of W.C.White, ngày 18 tháng 4, 1929>
Không chỉ Willy White tin như vậy, CẢ HỘI THÁNH SDA thời các nhà Tiên Phong cũng tin như vậy. James White tin vậy, Loughborough tin như vậy, Joseph Bates tin như vậy, Andrews tin như vậy. Ellen White tin như vậy. Rằng con số 144,000 kia thực sự là đúng 144,000 người đúng theo nghĩa đen, gồm tất cả các tín hữu của sứ điệp ba thiên sứ triển khai từ 1844! Một giáo lý cơ bản của hội thánh SDA mà ngày nay đã bị chôn vùi. Bởi có lý do rất hợp lý để nhiều người muốn chôn vùi giáo lý này.
22. Từ khi hội thánh SDA hoạt động đến nay, đã có biết bao chục triệu tín đồ trong suốt quá trình lịch sử. TẠI SAO LẠI CHỈ CÓ 144,000 NGƯỜI CÓ ẤN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI? Tất cả những người còn lại vì sao không có?
Việc chỉ có 144,000 người có ấn của Đức Chúa Trời trên trán, trong khi nhóm này bao gồm tất cả các tín hữu của sứ điệp ba thiên sứ được hình thành từ ngay khi sứ điệp ấy đầu được truyền giảng, năm 1844, chính là bằng chứng hùng hồn nhất cho việc rõ ràng là dọc đường đi, chính hội thánh SDA trên quy mô tổ chức đã phải bị kẻ địch công phá ở một điểm nào đó, khiến họ không thể nhận lãnh ấn ấy được nữa, và số người được đóng ấn dừng lại chứ không tăng lên theo số tín hữu mới của hội thánh.
Khải Huyền 14:1 Tôi nhìn xem, kìa, Chiên Con đứng trên núi Si-ôn cùng với một trăm bốn mươi bốn nghìn người có danh Chiên Con và danh Cha của Chiên Con ghi trên trán mình.
Ấn của Đức Chúa Trời đầu tiên và căn bản nhất phải là danh Ngài và Con Trai Ngài trên trán cái đã, tức là một sự hiểu chính xác về danh tính vị Đức Chúa Trời chân chính duy nhất và Con Trai Ngài ghi trong tâm trí, sự nhận biết Đức Chúa Trời và Con Trai Ngài ấy sau đó mới phản ánh ra ngoài thành việc vâng giữ các điều răn, trong đó có điều răn thứ tư: ngày Sa-bát. Việc đánh mất tri thức này rõ ràng sẽ khiến cho hội thánh không thể nào nhận lãnh được ấn của Đức Chúa Trời nữa. Số tín hữu dù tiếp tục tăng lên, số người được đóng ấn cũng sẽ dừng lại.
Sự sa ngã ấy xảy ra 31 năm sau khi Ellen White ra đi, vào năm 1946, một người bị nghi là gián điệp tôn giáo của hội đồng Jesuit thuộc Công Giáo, tên là LeRoy Edward Froom, cùng với đồng bọn đã đọc vô số bản thảo của bà White để tìm ra bất kỳ câu từ nào mà khi lấy ra khỏi ngữ cảnh, gọt tỉa lại, có thể được sử dụng để ủng hộ giáo lý Đức Chúa Trời Ba Ngôi, rồi tập hợp chúng lại thành quyền Evangelism để truyền bá và đưa giáo lý Đức Chúa Trời Ba Ngôi ấy trở thành một trong 28 tín lý cơ bản của hội thánh, thay đổi vị Đức Chúa Trời mà hội thánh SDA thờ phượng.
23. Đặc điểm nhận dạng của nhóm 144.000 là gì?
Đặc điểm 1:
Khải Huyền 14: 1 Một trăm bốn mươi bốn nghìn người có danh Chiên Con và danh Cha Chiên Con ghi trên trán mình.
Trong Kinh Thánh, trán là biểu tượng của tâm trí. Việc có danh Chiên Con và danh Cha Chiên Con ghi trên trán đồng nghĩa với việc họ có một sự nhận biết Đức Chúa Trời chân chính duy nhất và Con Trai Độc Sanh của Ngài một cách CHÍNH XÁC. Sự nhận biết này sau đó mới phản ánh ra thành việc vâng giữ Mười Điều Răn, trong đó có điều răn thứ tư. Đây chính là Ấn của Đức Chúa Trời. Độc giả có thể xem lại bài giảng đó để nắm rõ hơn.
Đặc điểm 2:
Khải Huyền 14:4 Chiên Con đi đâu thì những người này theo đó.
Đây là những người đã đầu phục Chúa hoàn toàn, không phải các Cơ Đốc nhân ỡm ờ thường thấy trong thời đại này. Thêm vào đó, đặc điểm “lẽo đẽo đi theo Chúa Jesus” này nếu kết hợp với con số 12.000 x 12 lần kia, là một ám chỉ rất mạnh đến nhóm 12 sứ đồ của Chúa Jesus. Cá nhân tôi tin rằng dữ liệu như vậy là đủ mạnh để nhận biết nhóm này là nhóm “các Sứ Đồ” của Ngài trong những ngày cuối cùng, là thành phần chủ lực của đội quân Ngài.
Đặc điểm 3:
Khải Huyền 14:4, 5 Những người ấy không bị ô uế với phụ nữ vì họ còn trinh khiết. … Trong miệng họ không tìm thấy sự dối trá nào.
Trong Kinh Thánh, “phụ nữ” là biểu tượng của các hội thánh. Những người này không bị tiêm nhiễm một tà thuyết dối trá nào, từ bất cứ hội thánh bội đạo nào, dù là Ba-by-lon hay các con gái của nó.
<EGW, Các lời chứng cho hội thánh (Testimonies for the church) quyển 1, 129.1>
“Tôi thấy rằng Đức Chúa Trời đã ban cho các đầy tớ Ngài chân lý quá rõ ràng, quá thẳng thừng, đến nỗi nó không thể bị chống cự nổi. Bất cứ nơi nào họ đi đến, họ đều sẽ có chiến thắng chắc chắn. Các kẻ địch của họ đều không thể vòng nổi qua chân lý quá thuyết phục ấy. Ánh sáng đã được chiếu tỏa quá rõ ràng đến nỗi các đầy tớ của Đức Chúa Trời có thể đứng lên ở bất cứ nơi nào và để ánh sáng, rõ ràng và nhất quán, tự đem đến chiến thắng.”
Nhóm 144.000 là những người hiểu chính xác tất cả các chân lý Kinh Thánh, kết hợp với việc đã có Chúa JESUS làm chủ hoàn toàn trong linh hồn mình, họ trở thành đội quân bách chiến bách thắng của Ngài trên mọi đấu trường, trước mọi kẻ địch, chống lại bất cứ tà thuyết nào.
Nhưng điều đó cũng có nghĩa: nếu một người để mình bị lừa cho tin nhận bất cứ một giáo lý dối trá ngu ngốc nào, kể cả những thứ ngu ngốc nhất phản cả khoa học lẫn Kinh Thánh, như thuyết tiến hóa và thuyết trái đất phẳng (flat earth), dạy rằng Kinh Thánh bảo trái đất hình cái đĩa phẳng bẹt chứ không phải hình cầu (?!), người ấy lập tức không thể còn là thành viên của nhóm 144.000 này nữa, dù có vẫn được cứu hay không.
Kết luận:
Ta có thể thấy nhóm 144,000 người này gồm hai nhóm sau:
1) Những người được đóng ấn thuộc thời của bà White, chết trước khi cả hội thánh sa ngã, như trường hợp của bà Hastings.
2) Những người được đóng ấn trong những ngày cuối cùng ngay trước khi Chúa trở lại, khi Đức Chúa Trời nỗ lực phục hồi sự hiểu biết chính xác về Ngài trong hội thánh tàn dư của Ngài, sau khi hội thánh đã bị lạc đường và tin nhận giáo lý ba ngôi, thay đổi vị Đức Chúa Trời mà họ thờ phượng.
Có rất, rất ít người sẽ tiếp nhận sự sửa trị này, ít đến mức tổng quân số của họ, cộng với những người đã chết từ thời bà White, mới chỉ được 144,000 mà thôi. Đây là số người ít ỏi vừa vâng giữ chính xác mười điều răn của Đức Chúa Trời, bao gồm cả điều răn thứ nhất lẫn thứ tư, vừa có lời chứng của Đức Chúa Jesus (Khải Huyền 12:17), kế thừa các ghi chép của nhà tiên tri Ellen White mà Chúa đã ban cho hội thánh.
Cuộc Chấn Động Lớn mà bà White tiên tri đã bắt đầu. Cũng như người Do Thái đã bị loại vì chối bỏ Chúa Jesus, cũng như những người Công Giáo đã bị loại vì chối bỏ phong trào Cải Chánh, cũng như những người Tin Lành đã bị loại vì chối bỏ sứ điệp ngày Sa-bát, giờ đã đến lượt hội thánh SDA chúng ta: tất cả những ai chối bỏ chân lý về vị Đức Chúa Trời chân chính duy nhất và Con Trai Độc Sanh của Ngài để trở về đúng với các cột trụ đức tin mà Chúa đã ban cho các nhà Tiên Phong ĐỀU SẼ BỊ LOẠI. Chỉ những ai tiếp nhận mới được đi tiếp mà thôi.
24. Khi nào thì trận chiến cuối cùng mới có thể khai mạc, để Chúa còn tái lâm?
Khải Huyền 7:3 Bảo rằng: “Đừng làm hại đất, biển và những cây cối, cho đến lúc chúng ta đã đóng ấn trên trán các đầy tớ của Ðức Chúa Trời chúng ta.” Tôi nghe số người được đóng ấn là: một trăm bốn mươi bốn nghìn.
Chừng nào chưa tìm đủ 144.000 người để đóng ấn xong xuôi, lượt bắt bớ cuối cùng của lịch sử nhân loại sẽ vẫn còn bị bốn vị thiên sứ giữ lại, chưa thể bắt đầu. Việc truyền bá các chân lý Kinh Thánh chính xác để quy tụ đủ đạo quân 144.000 này chính là chìa khóa để đẩy nhanh ngày tái lâm của Chúa Jesus.
Hiện nay, phong trào kêu gọi trở lại với giáo lý đúng Kinh Thánh đã được Chúa tái lập trở lại từ thời bà White đang khiến cho nửa còn lại của nhóm 144,000 gia tăng nhanh chóng. Với sự lan truyền của sứ điệp bóc trần tà thuyết Ba Ngôi trong nội bộ hội thánh SDA, và sự rao giảng rộng rãi các chân lý cột trụ đức tin đã được ban cho các nhà Tiên Phong ra khắp các hội thánh khác nhau, quân số 144,000 nói trên sẽ sớm được đổ đủ.
Bạn có thể giải trình được bằng cách nào giáo lý Ba Ngôi có thể sống sót nổi hai câu Kinh Thánh này không:
Giăng 17:3 Này là sự sống vĩnh cửu: rằng họ có thể nhận biết Cha là Ðức Chúa Trời chân chính duy nhất, và JESUS Christ là Đấng Cha sai đến.
I Cô-rinh-tô 8:6 Nhưng đối với chúng ta thì chỉ có một Đức Chúa Trời là Cha.
Vậy bạn có đồng ý từ bỏ tà thuyết trái Kinh Thánh không sống sót nổi lời chứng thẳng thừng của Lời Chúa này, để gia nhập đoàn quân 144.000 bằng việc trở về với Đức Chúa Trời Chân Chính Duy Nhất và Con Trai Độc Sanh của Ngài, và vươn cao lên họ hàng ngày bằng tâm linh và chân lý tinh khiết, để sẵn sàng đón nhận Cơn Mưa Cuối Mùa không?
Phụ lục
Ellen White có thay đổi đức tin của mình sang tin nhận giáo lý ba ngôi không?
Trong thời đại của hội thánh SDA Tiên Phong, cả hội thánh không hề chấp nhận giáo lý ba ngôi. Điều này được công khai thừa nhận bởi cả các lãnh đạo hội thánh SDA Hiện Đại ngày nay là những người đã tin theo tà thuyết này, và đồng thời được thể hiện rất rõ ràng qua các văn bản, ghi chép của tất cả các nhà Tiên Phong, điển hình như “tuyên ngôn niềm tin” (statements of beliefs) của hội thánh được biên soạn vào năm 1872, hay “những nguyên tắc nền tảng của những người Cơ Đốc Phục Lâm ngày-thứ-bảy” (fundamental principles of the seventh-day Adventists) xuất bản trong niên sổ (yearbook) của hội thánh năm 1889, đều khác xa so với bộ 28 niềm tin căn bản của hội thánh SDA Hiện Đại, như nhà sử học George Knight của hội thánh SDA ngày nay thẳng thừng thừa nhận:
“Phần lớn các nhà sáng lập của giáo hội SDA sẽ không thể gia nhập được hội thánh ngày nay nếu họ phải chấp thuận các tín lý cơ bản của hệ phái. Cụ thể hơn, phần lớn sẽ không thể đồng tình với tín lý số 2, về giáo lý ba ngôi.”
<Ministry, tháng 10, 1993, trang 10>
Hay đơn cử như tuyên ngôn sau đây của James White, người má kề tay ấp đồng đức tin với bà White và được coi là vị sứ đồ Phao-lô của phong trào:
<James White, 12/9/1954, Review & Herald, vol.6, no.5, page 36, par.8>
“Về những sai lạc cơ bản, chúng ta có thể liệt cùng với ngày sa-bát giả này những sai lạc khác mà những người Cải Chánh giáo đã đem đi từ nhà thờ Công Giáo, như báp-tem bằng vẩy nước, đức chúa trời ba ngôi (the trinity), sự tỉnh thức của người chết và sự sống vĩnh cửu trong khổ sở. Số đông đang lưu giữ những sai lạc cơ bản này, không nghi ngờ gì đã làm như vậy một cách vô ý; nhưng liệu có thể nào hội thánh của Đấng Christ sẽ mang cùng mình những sai lạc này cho đến khi quang cảnh Ngày Phán Xét ập đến trên thế giới không? Chúng tôi không nghĩ vậy.”
Tuy nhiên hội thánh SDA Hiện Đại sau này khi đã tiếp nhận giáo lý ba ngôi, đã đi rêu rao rằng chính Ellen White, nhà tiên tri của hội, đã thay đổi niềm tin của mình và tiếp nhận tà thuyết này sau khi viết xong quyển “Niềm khát khao của các thời đại” (Desire of Ages) vào năm 1898. Lời rêu rao này có phải là sự thật không? Hãy xem chính Ellen White nói gì:
<EGW, lá thư 150 (letter 150), 15/5/1906>
“Tôi sẽ là một người lính canh không trung tín, nếu tôi giữ im lặng, khi tôi thấy chính những nền tảng của đức tin chúng ta bị phá đi bởi những kẻ đã rời bỏ khỏi đức tin, và bây giờ đang trôi dạt, không một mỏ neo. Trong thời điểm này, khi các tà thuyết đang được dạy dỗ, chúng ta phải dạy cùng thứ chân lý mà chúng ta đã dạy trong suốt nửa thế kỷ vừa rồi. Tôi đã không hề thay đổi đức tin của mình một chấm hay một nét.”
<EGW, lá thư 38 (letter 38), 1906>
“Bằng chứng được ban cho trong trải nghiệm ban đầu của chúng ta có cùng một sức mạnh mà nó đã có hồi đó, chân lý vẫn nguyên xi như nó mãi mãi đã từng, và không một cái đinh hay một cột trụ nào có thể bị xê dịch khỏi tòa nhà chân lý. Những gì đã được tìm ra từ Lời Chúa vào năm 1844, 1845, và 1846, vẫn là chân lý đến từng chi tiết.”
Cả hai tuyên ngôn này đều được xuất bản vào năm 1906, tức là đến tận những năm cuối đời của bà ấy, cho thấy bà ấy không hề phá bỏ một chấm một nét nền tảng đức tin của mình trong suốt nửa thế kỷ. Dù sau đó người ta có cố ý biên tập, chỉnh sửa lời bà ấy nói như thế nào đi chăng nữa, cũng sẽ không bao giờ có thể thay đổi được sự thật hiển nhiên này.
Xin lưu ý rằng: tất cả các sách của Ellen White mà chúng ta đang đọc ngày nay đều là những ấn phẩm “tái bản” đã bị “biên tập” và “hiệu đính” lại sau khi bà White chết đi vào năm 1915, không hề được nhà tiên tri ấy xác nhận là có biên tập/hiệu đính đúng theo ý bà ấy hay không.
Đặc biệt, sau khi bà White chết đi và hội thánh SDA đã bị xâm nhập bởi tà thuyết Ba Ngôi, họ đã tiếp tục xuất bản nhiều quyển sách trích dẫn lời bà White và mạo nhận uy tín của bà, nhưng thực ra đã bị họ biên tập lại để cổ xúy cho tà thuyết này, điển hình là quyển “Evangelism” biên tập bởi Leroy Edward Froom – kẻ đã tiêm nhiễm tà thuyết Ba Ngôi vào hội thánh SDA và bị tình nghi là gián điệp của hội Jesuit thuộc Công Giáo La Mã cài vào. Giờ thì có lẽ chỉ có Chúa mới biết được có bao nhiêu sai lạc đã bị chèn vào trong các sách như vậy. Chúng mặc dù chứa rất nhiều ánh sáng, vì đã sao chép lại rất nhiều lời của bà White, nhưng nếu có đọc chúng thì luôn phải hết sức cẩn thận để dùng Kinh Thánh phát hiện ra những điểm trái với các chân lý mà bình thường chính Ellen White vẫn dạy, như bà ấy đã dặn trước: “Kinh Thánh, và chỉ duy nhất Kinh Thánh, là bộ luật cho đức tin và nghĩa vụ của con người.”1
Khi nào Chúa muốn, để rồi Ngài ban cho mình những quyển sách của bà White có ngày xuất bản trước khi bà ấy qua đời – những ấn phẩm cũng được cảm thúc bởi Đức Chúa Trời rồi được gìn giữ tinh khiết nguyên vẹn – mình sẽ scan lại và phiên dịch ra tiếng Việt, rồi đăng cả hai lên song song cho các anh chị em cùng đọc.
1 Cuộc Chiến Vĩ Đại (The Great Controversy) (Mountain View, CA: Pacific Press, 1950), trang 204, 205.
Thơ chế nhạo giáo lý Ba Ngôi của các Nhà Tiên Phong hội thánh SDA
Có lẽ một trong những bằng chứng hùng hồn nhất minh chứng những nhà Tiên Phong của hội thánh SDA không hề tin nhận giáo lý Ba Ngôi chính là bài thơ chế nhạo tà thuyết này được đăng trên tờ báo chính thức của hội thánh, tờ Review & Herald, 12/3/1857:
“Rằng ba là một và một là ba,
Là một tư tưởng thật rối não ta,
Bởi nhiều triết gia bác học vẫn chế:
Rằng ba là một ở trong Thượng Đế
“Cha vậy có thể vẫn chính là Con.
Vì hai hiệp một vẫn chỉ một ông
Con cũng như vậy có thể là Cha
Mà chẳng có thay đổi nhỏ nào cả.
“Vâng, Linh phước hạnh cũng có thể là
Đức Ba Ngôi, Đức Con, Đức Cha
Đây là giáo lý của người Cơ Đốc
Tự xưng mình là chân chính nguyên gốc,
Mà thảy đều ngược lại với lẽ thường,
Mình buộc phải tin hoặc bị coi thường.”
Có thể thấy rõ, các nhà Tiên Phong không những không tiếp nhận giáo lý Ba Ngôi, mà còn công nhiên chế nhạo nó và báng bổ thần Ba Ngôi. Nếu giáo lý Ba Ngôi là đúng, thì không thể có chuyện những “kẻ báng bổ” này được kể là “những người vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời” được, vì hành vi này rõ ràng sẽ là sự vi phạm trực tiếp điều răn thứ nhất và thứ ba.
Một số người lý luận rằng vào thời những nhà Tiên Phong, họ chưa được ban cho “ánh sáng” về giáo lý Ba Ngôi, phải về sau hội thánh mới được biết, và họ dẫn chứng những việc như ban đầu Đức Chúa Trời chưa cho dân sự Ngài biết về vấn đề đồ ăn thanh sạch và đồ ăn chay. Nhưng khi hội thánh chưa nhận được ánh sáng về vấn đề ăn chay, họ cũng đâu có bao giờ lên tiếng phản bác nó? Ấy là đặc điểm của những người đầu phục Chúa khi chưa nhận được một ánh sáng nào đó từ Ngài: họ chắc chắn sẽ không bao giờ lên tiếng chống đối chân lý, mà chỉ đơn thuần đang bị ở trong tình trạng mù mờ, chưa biết mà thôi.
Nhưng xin hãy nhìn cho rõ bài thơ này: đây là hành vi công kích công khai có chủ đích, không còn là “vô tình sai phạm vì chưa biết” nữa. Khác với vấn đề ăn chay, về vấn đề Ba Ngôi, những nhà Tiên Phong đã được ban cho ánh sáng rõ ràng rằng nó LÀ một tà thuyết, và họ lên tiếng rao giảng mạnh mẽ chống lại nó. Cho nên việc hội thánh SDA sau này tiếp nhận giáo lý Ba Ngôi hoàn toàn không phải là hành vi tiếp nhận một ánh sáng mới mà Chúa khi xưa chưa ban cho các nhà Tiên Phong, mà là một sự bội đạo trượt dốc khỏi một trong các cột trụ đức tin mà Ngài đã bày tỏ rõ ràng cho họ, như có thể thấy rõ trong “tuyên ngôn niềm tin” (statements of beliefs) của hội thánh được biên soạn vào năm 1872, hay “những nguyên tắc nền tảng của những người Cơ Đốc Phục Lâm ngày-thứ-bảy” (fundamental principles of the seventh-day Adventists) xuất bản trong niên sổ (yearbook) của hội thánh năm 1889.
Chân lý mới sẽ không bao giờ mâu thuẫn với chân lý cũ, mà sẽ chỉ làm sáng tỏ thêm những gì đã được bày tỏ mà thôi. Tất cả các cột trụ đức tin mà Chúa đã ban cho các nhà Tiên Phong, bao gồm cả sự nhận biết chính xác danh tính của vị Đức Chúa Trời chân chính duy nhất và Con Trai Độc Sanh của Ngài, đều là chân lý đến từng chi tiết, nguyên xi như nó mãi mãi đã từng, và sẽ không một cái đinh hay một cột trụ nào có thể bị xê dịch.