Chương 2—Sự bắt bớ trong những thế kỷ đầu

Khi Jesus tiết lộ cho các môn đồ về số phận của Giê-ru-sa-lem và những cảnh tượng của lần tái lâm thứ hai, Ngài cũng đã báo trước những trải nghiệm của dân Ngài từ thời điểm Ngài bị đem đi khỏi họ, cho đến sự trở lại của Ngài trong quyền năng và vinh quang cho sự giải cứu của họ. Từ đỉnh Ô-liu, Đấng Cứu Độ nhìn xem những bão tố sắp ập đến trên Hội Thánh các sứ đồ; và xuyên thấu sâu hơn vào tương lai, đôi mắt Ngài nhận biết những cơn bão dữ dội, tàn phá sẽ giáng xuống những người theo Ngài trong những kỷ nguyên đang đến của bóng tối và bắt bớ. Trong vài tuyên bố ngắn gọn có ý nghĩa trọng đại, Ngài đã báo trước định phần mà những kẻ cai trị của thế giới này sẽ dành ra cho Hội Thánh của Đức Chúa Trời. Ma-thi-ơ 24: 9, 21, 22. Những người theo Đấng Christ phải bước trên cùng một con đường của sự khiêm hạ, sỉ nhục và đau khổ mà Thầy của họ đã bước đi. Sự thù nghịch đã bung ra chống lại Đấng Cứu Thế sẽ lại được hiển lộ ra chống lại tất cả những ai tin vào danh Ngài. {GC 39.1}

Lịch sử của Hội Thánh sơ khai đã làm chứng cho sự ứng nghiệm lời của Đấng Cứu Độ. Các thế lực trần gian và địa ngục đã dàn trận mình chống lại Đấng Christ trong thân vị những người theo Ngài. Ngoại giáo đã thấy trước rằng nếu Tin Lành thắng thế, các đền thờ và bàn thờ của nó sẽ bị quét sạch; vì vậy, nó đã triệu hồi lực lượng của mình để tiêu diệt Cơ Đốc giáo. Ngọn lửa bắt bớ được đốt lên. Các Cơ Đốc nhân bị tước đoạt tài sản mình và bị đuổi khỏi nhà mình. Họ đã “chịu đựng một cuộc chiến lớn những gian khổ” (Hê-bơ-rơ 10:32). Họ “chịu thử thách bị chế giễu và đánh đập, còn xiềng xích và lao tù nữa.” (Hê-bơ-rơ 11:36). Một số lượng lớn đã đóng ứng lời chứng của mình bằng máu mình. Quý tộc và nô lệ, giàu và nghèo, trí thức và ít học, đều bị giết hại không thương tiếc như nhau. {GC 39.2}

Những cuộc bắt bớ này, bắt đầu dưới Nero vào khoảng thời gian tử đạo của Phao-lô, tiếp tục với sự cuồng nộ nhiều hơn hay ít hơn hàng thế kỷ. Các Cơ Đốc nhân bị vu cáo những tội ác khủng khiếp nhất và bị tuyên bố là nguyên nhân của những thảm họa lớn – nạn đói, bệnh dịch và động đất. Cùng với việc họ trở thành các đối tượng của lòng căm ghét và hồ nghi chung, những kẻ chỉ điểm đứng sẵn sàng, vì lợi lộc, để phản nộp người vô tội. Họ bị kết án là những kẻ nổi loạn chống lại đế chế, kẻ thù của tôn giáo, và vật hại đối với xã hội. Những số lượng lớn bị ném cho thú hoang hoặc bị thiêu sống trong các đấu trường. Một số bị đóng đinh thập tự; những người khác bị bọc da động vật hoang dã và đẩy vào đấu trường để bị chó xé xác. Hình phạt của họ thường được lập làm là trò giải trí chủ đạo trong các lễ hội công. Các đám đông tụ họp lại để tận hưởng cảnh tượng và chào đón những đớn đau trong lúc hấp hối của họ bằng tiếng cười và vỗ tay. {GC 40.1}

Bất cứ nơi nào họ tìm kiếm chỗ ẩn náu, những người theo Đấng Christ đều bị săn đuổi như những con thú săn mồi. Họ bị buộc phải tìm kiếm sự che giấu trong những nơi hoang vu và hẻo lánh. “Bị thiếu thốn, bị hà hiếp, bị ngược đãi; (những người mà thế gian không xứng đáng cùng:) họ lang thang trong nơi hoang vu, và núi non, và các hang động, và các hầm hố của đất.” (Hê-bơ-rơ 11: 37-38). Các hầm mộ đã chu cấp chỗ ở cho hàng nghìn ngời. Dưới những ngọn núi ngoài thành Rome, những đường hầm dài đã được đào xuyên qua đất và đá; mạng lưới lối đi tăm tối và phức tạp này trải dài hàng dặm vượt ra ngoài các bức tường thành. Trong những nơi ẩn náu ngầm này, những người theo Đấng Christ đã chôn cất người chết của họ; và cũng ở đây, khi bị nghi ngờ và truy bắt, họ đã tìm được một mái nhà. Khi Đấng Ban Sự Sống đánh thức những người đã chiến đấu cuộc chiến chính nghĩa, nhiều tử đạo nhân vì cớ Đấng Christ sẽ tiến ra từ những hang động u ám đó. {GC 40.2}

Dưới sự bắt bớ khốc liệt nhất, những nhân chứng này của Jesus vẫn giữ vững đức tin mình không hoen ố. Dù bị tước đoạt mọi tiện nghị, bị ngăn cách khỏi ánh sáng mặt trời, lập tổ ấm mình trong lòng đất tối tăm nhưng thân thiện, họ không thốt ra bất cứ lời phàn nàn nào. Với lời lẽ của đức tin, nhẫn nại và hy vọng, họ động viên nhau chịu đựng thiếu thốn và phiền muộn. Sự mất mát mọi phước lành trần thế không thể nào buộc họ từ bỏ niềm tin vào Đấng Christ. Những thử thách và bắt bở chỉ là những bước đưa họ đến gần hơn với sự an nghỉ họ và phần thưởng họ. {GC 41.1}

Như những đầy tớ của Đức Chúa Trời thời xưa, nhiều người đã “bị tra tấn mà không nhận lãnh sự giải cứu để được sự sống lại tốt hơn.” (Hê-bơ-rơ 11:35). Những điều này nhắc họ nhớ lại lời của Thầy mình, rằng khi bị bắt bớ vì cớ Đấng Christ, họ hãy vui mừng hớn hở, vì lớn thay là phần thưởng của họ trên trời; vì các nhà tiên tri trước họ cũng đã bị bắt bớ như vậy. Họ vui mừng vì họ được kể là xứng đáng chịu khổ vì chân lý, và những bài ca chiến thắng vọng lên từ giữa những quầng lửa bập bùng. Nhìn lên bởi đức tin, họ thấy Đấng Christ và các thiên sứ cúi xuống qua các chiến lũy của thiên đường, nhìn xuống họ với nỗi quan hoài sâu sắc và đánh giá sự kiên định của họ với sự chấp thuận. Một thanh âm xuống với họ từ ngai Đức Chúa Trời: “Hãy trung tín cho đến chết, và Ta sẽ ban cho con mão miện của sự sống.” Mặc Khải 2:10. {GC 41.2}

Vô ích thay đã là mọi nỗ lực của Satan nhằm hủy diệt hội thánh của Đấng Christ bằng vũ lực. Cuộc đại chiến mà trong ấy các môn đồ của Jesus đã hy sinh mạng sống mình đã không ngừng lại khi những người mang cờ trung tín này ngã xuống tại vị trí của họ. Bởi thất bại, họ chiến thắng. Những người làm công của Đức Chúa Trời đã bị giết, nhưng công việc Ngài đã tiến triển vững vàng về phía trước. Tin Lành đã tiếp tục lan tỏa và số người tuân thủ nó cứ gia tăng. Nó xuyên phá cả vào những vùng đất không thể truy cập được ngay cả đối với những con đại bàng của Rome. Một Cơ Đốc nhân đã nói, trong khi tranh luận với những kẻ cầm quyền ngoại đạo đang hối thúc việc bắt bớ: Các người có thể “giết chúng tôi, tra tấn chúng tôi, kết án chúng tôi… Sự bất công của các ngươi chính là bằng chứng rằng chúng tôi vô tội… Cả sự tàn nhẫn của các người… cũng chẳng ích gì cho các người đâu.” Ấy đã chỉ là một lời mời gọi mạnh mẽ hơn nữa để đưa những người khác đến với niềm tin của họ. “Chúng tôi càng bị đánh hạ bởi các người thường xuyên hơn, chúng tôi càng tăng trưởng về quân số; máu của các Cơ Đốc nhân chính là hạt giống.” – Tertullian, Biện Luận, khổ 50. {GC 41.3}

Hàng nghìn người đã bị bỏ tù hoặc sát hại, nhưng những người khác trỗi dậy thế chỗ họ. Và những người bị tử đạo vì đức tin của mình thì được đảm bảo đối với Đấng Christ và được tính là những người chiến thắng bởi Ngài. Họ đã chiến đấu cuộc chiến chính nghĩa, và họ sẽ nhận được mão triều thiên vinh quang khi Đấng Christ hiện đến. Những thống khổ mà họ đã chịu đã đem những Cơ Đốc nhân đến nhau và đến Đấng Cứu Chuộc mình gần hơn. Gương mẫu sống động của họ và lời chứng khi lâm chung của họ đã là một bằng chứng liên tục cho chân lý; và ở nơi ít ngờ đến nhất, các thần dân của Satan đã bỏ khỏi sự phục vụ hắn và đăng ký dưới lá cờ của Đấng Christ. {GC 42.1}

Satan vì vậy đã đặt ra các kế hoạch của hắn để chiến đấu hiệu quả hơn chống lại chính quyền của Đức Chúa Trời bằng cách cắm lá cờ của hắn vào hội thánh Cơ Đốc. Nếu những người theo Đấng Christ có thể bị lừa dối và dẫn dụ đến việc làm phật lòng Đức Chúa Trời, thì sức mạnh, lòng kiên cường và sự vững chắc của họ sẽ sụp đổ, và họ sẽ trở thành con mồi dễ dàng. {GC 42.2}

Kẻ Địch Lớn giờ nỗ lực đạt được bằng mưu mẹo thứ mà hắn đã thất bại trong việc đạt được bằng vũ lực. Bắt bớ ngừng lại, và thay vào chỗ nó là những mồi chài nguy hiểm của sự thịnh vượng tạm thời và danh vọng thế gian. Những kẻ thờ thần tượng được dẫn dụ để tiếp nhận một phần đức tin Cơ Đốc, trong khi chúng chối bỏ các chân lý cốt lõi khác. Chúng tuyên xưng tiếp nhận Jesus là Con Trai Đức Chúa Trời và tin vào cái chết và sống lại của Ngài, nhưng chúng không có sự cáo trách nào về tội lỗi và không cảm thấy sự cần thiết nào cho việc ăn năn hay một sự biến cải của trái tim. Với một vài nhượng bộ về phía mình, chúng đề nghị rằng các Cơ Đốc nhân cũng hãy có những nhượng bộ, để tất cả có thể hiệp nhất trên nền tảng niềm tin vào Đấng Christ. {GC 42.3}

Giờ thì hội thánh đang đứng trước nguy cơ khủng khiếp. Ngục tù, tra tấn, lửa, và gươm đã là những phước lành so với điều này. Một số Cơ Đốc nhân đứng vững, tuyên bố rằng họ không thể có thỏa hiệp nào. Số khác ủng hộ việc nhượng bộ hoặc thay đổi một số đặc điểm của đức tin mình và đoàn kết với những kẻ đã chấp nhận một phần Cơ Đốc giáo, thúc giục rằng đây có thể là phương tiện cho sự biến cải hoàn toàn của họ. Đó là một thời khắc đầy đau buồn sâu sắc đối với những người theo Đấng Christ trung tín. Dưới lớp vỏ Cơ Đốc giáo giả mạo, Satan đã len lỏi mình vào hội thánh, để làm tha hóa đức tin của họ và quay tâm trí họ đi khỏi lời chân lý. {GC 42.4}

Phần lớn các Cơ Đốc nhân cuối cùng đã đã chấp thuận hạ thấp lá cờ tiêu chuẩn của mình xuống, và một sự hiệp nhất đã được thiết lập giữa Cơ Đốc giáo và ngoại giáo. Mặc dù những người thờ thần tượng tuyên xưng đã cải đạo, và đã liên hiệp với hội thánh, chúng vẫn bám lấy trò thờ thần tượng của mình, và chỉ thay đổi các đối tượng thờ cúng của chúng thành các hình tượng của Jesus, và thậm chí của Mary và các thánh. Cái men hôi thối của trò thờ thần tượng, được đem vào hội thánh như vậy, đã tiếp diễn công việc thảm họa của nó. Các giáo lý sai lầm, các nghi lễ mê tín dị đoan, và các lễ lạc thờ thần tượng đã được kết hợp vào đức tin và sự thờ phượng của nó. Khi những người theo Đấng Christ kết hợp với những kẻ thờ thần tượng, Cơ Đốc giáo trở nên suy bại, và hội thánh mất đi sự trong sạch và quyền năng của nó. Tuy nhiên, vẫn có một số người không bị dẫn dụ bởi những trò ảo tưởng này. Họ vẫn giữ vững lòng trung thành của mình với vị Tác Giả của chân lý và chỉ thờ phượng duy nhất Đức Chúa Trời. {GC 43.1}

Luôn tồn tại hai nhóm trong những người xưng là người theo Đấng Christ. Trong khi một nhóm nghiên cứu cuộc đời của Đấng Cứu Độ và sốt sắng tìm cách sửa chữa các thiếu sót của mình và tuân thủ theo Gương Mẫu ấy, nhóm còn lại né tránh những chân lý thẳng thừng, thiết thực phơi bày các sai lạc của họ. Ngay cả trong tình trạng tử tế nhất, hội thánh vẫn không chỉ bao gồm những người chân chính, trong sạch và chân thành. Đấng Cứu Chuộc của chúng ta đã dạy rằng những kẻ cố tình đắm chìm trong tội lỗi sẽ không được tiếp nhận vào hội thánh; tuy nhiên, Ngài vẫn kết nối với mình những người khiếm khuyết trong nhân cách, và ban cho họ các lợi ích của các dạy dỗ và tấm gương của Ngài, để họ có thể có một cơ hội để nhìn ra các lầm lạc của mình và sửa chữa chúng. Trong vòng mười hai sứ đồ đã là một kẻ phản bội. Giu-đa đã được chấp nhận, không phải vì các khiếm khuyết nhân cách của hắn, mà bất chấp chúng. Hắn đã được kết nối với các môn đồ, để, qua sự hướng dẫn và tấm gương của Đấng Christ, hắn có thể học được điều gì cấu thành nhân cách Cơ Đốc, và như vậy được dẫn dắt để thấy được các lầm lạc của mình, để ăn năn, và, bởi sự trợ giúp của ân điển thần thánh, để thanh tẩy linh hồn mình “trong sự vâng phục chân lý.” Nhưng Giu-đa đã không bước đi trong ánh sáng đã được gia ân cho phép chiếu trên hắn đến như vậy. Bởi việc thụ hưởng tội lỗi, hắn mời gọi các cám dỗ của Satan. Các đặc điểm nhân cách xấu xa của hắn trở nên thắng thế. Hắn giao nộp tâm trí mình cho sự điều khiển của các thế lực bóng tối, hắn đã trở nên tức giận khi những lỗi lầm của mình bị khiển trách, và do đó hắn đã bị dẫn dắt đến việc thực hiện cái tội ác khủng khiếp của việc phản bội Thầy mình. Cũng như vậy, tất cả những kẻ nuôi dưỡng điều ác dưới việc xưng nhận sự tin kính căm ghét những ai quấy rầy bình yên của chúng bằng cách lên án đường lối tội lỗi của chúng. Khi một cơ hội thuận lợi xuất hiện, chúng sẽ, giống như Giu-đa, phản bội những người đã vì lợi ích của chúng mà tìm cách khiển trách chúng. {GC 43.2}

Các sứ đồ đã gặp phải những kẻ trong hội thánh là những kẻ xưng nhận sự tin kính trong khi chúng đang âm thầm ấp ủ điều gian ác. A-na-ni-a và Sa-phi-ra đã đóng vai lũ lừa đảo, giả vờ đang dâng hiến tất cả cho Đức Chúa Trời, trong khi chúng đã đang giấu lại một phần cho mình một cách tham lam. Linh chân lý đã bày tỏ cho các sứ đồ nhân cách thực sự của bọn giả vờ này, và các đoán phạt của Đức Chúa Trời đã giải thoát hội thánh khỏi cái vết nhơ hôi thối này trên sự trong sạch của nó. Bằng chứng rành rành này về sự thấu thị của Linh Đấng Christ trong hội thánh đã là cả một nỗi kinh hoàng đối với bọn đạo đức giả và những kẻ làm ác. Chúng đã không thể ở lại lâu trong sự liên hiệp với những người mà, trong thói quen và tâm tính, đã là những đại diện liên tục của Đấng Christ; và khi thử thách và bắt bớ ập đến trên những người theo Ngài, chỉ những ai sẵn sàng hy sinh tất cả vì cớ chân lý mới mong muốn trở thành môn đồ của Ngài. Như vậy, chừng nào bắt bớ vẫn còn tiếp diễn, hội thánh vẫn còn tương đối trong sạch. Nhưng khi nó ngừng lại, những người cải đạo đã được thêm vào là những kẻ ít chân thành và tận tâm hơn, và đường đã được mở cho Satan đạt được một bàn đạp. {GC 44.1}

Nhưng chẳng có sự liên hiệp nào giữa vị Chúa Tể của ánh sáng và gã chúa tể của bóng tối cả, và chẳng thể có sự liên hiệp nào giữa những người đi theo họ. Khi các Cơ Đốc nhân bằng lòng hiệp với những kẻ chỉ mới được biến cải nửa vời từ ngoại giáo, họ tiến vào một con đường dẫn xa hơn và xa hơn khỏi chân lý. Satan đắc chí rằng hắn đã thành công trong việc lừa dối một số lượng lớn những người đi theo Đấng Christ. Hắn sau đó đem quyền năng của mình lên trên những kẻ này toàn diện hơn, và kích động chúng bắt bớ những người vẫn trung trinh với Đức Chúa Trời. Chẳng ai hiểu rõ hơn làm thế nào để chống lại đức tin Cơ Đốc chân chính như những kẻ đã từng là những người hộ vệ nó; và những Cơ Đốc nhân bội đạo này, liên hiệp với những bè bạn nửa ngoại giáo của chúng, đã hướng cuộc chiến của chúng sang chống lại những đặc điểm cốt lõi nhất của các giáo lý Đấng Christ. {GC 45.1}

Đã cần cả một cuộc vật lộn tuyệt vọng để những người trung tín đứng vững chống lại những lừa dối và những trò đáng ghê tởm đã được ngụy trang trong lớp áo giáo phẩm và giới thiệu vào trong hội thánh. Kinh thánh đã không được chấp nhận làm tiêu chuẩn của đức tin. Giáo lý tự do tôn giáo đã bị coi là dị giáo, và những người giữ vững nó bị căm ghét và bài xích. {GC 45.2}

Sau một cuộc xung đột dài và khốc liệt, số ít những người trung tín đã quyết định cắt đứt mọi liên hệ với hội thánh sa ngã nếu nó vẫn cứ từ chối giải thoát bản thân khỏi lầm lạc và sự thờ lạy hình tượng. Họ thấy rằng sự phân ly là điều tuyệt đối cần thiết nếu họ muốn vâng phục lời của Đức Chúa Trời. Họ không dám nhân nhượng cho những sai lạc trí mạng đối với linh hồn của chính họ, và bêu ra một tấm gương sẽ đe dọa đức tin của con cái và con cái của con cái họ. Để đạt được hòa bình và đoàn kết, họ sẵn sàng nhượng bộ bất cứ điều gì vẫn nhất quán với lòng trung thành với Đức Chúa Trời; tuy nhiên họ cảm thấy rằng ngay cả cái giá của hòa bình cũng sẽ là quá đắt khi phải thí bỏ nguyên tắc. Nếu sự đoàn kết chỉ có thể đạt được bằng sự thỏa hiệp chân lý và sự công chính, thì hãy có sự bất đồng, và thậm chí là chiến tranh. {GC 45.3}
——-
Sẽ tốt đẹp thay cho hội thánh và thế giới nếu những nguyên tắc đã vận hành những linh hồn kiên định đó được hồi sinh trong trái tim dân sự tự xưng của Đức Chúa Trời. Có một sự thờ ơ đáng báo động đối với những giáo lý là những trụ cột của đức tin Cơ Đốc. Quan điểm đang thắng thế là, suy cho cùng thì, chúng cũng chẳng quá quan trọng. Sự suy đồi này đang làm mạnh tay các tay chân của Satan, để các học thuyết sai lạc và những ảo tưởng trí mạng mà những người trung tín trong các thời đại trước đã liều mạng mình để chống lại và vạch trần, thì giờ được đánh giá với sự ưu ái bởi muôn nghìn người tự xưng là người theo Đấng Christ. {GC 46.1}

Những Cơ Đốc nhân ban đầu quả thật đã là một dân sự đặc biệt. Hành xử không chỗ chê trách và đức tin không lay chuyển của họ đã là một lời quở trách liên tục, quấy rầy sự bình yên của kẻ tội nhân. Dù ít ỏi về quân số, không có sự giàu sang, địa vị, hay tước hiệu trọng vọng, họ đã là một nỗi kinh hoàng đối với những kẻ làm ác bất cứ nơi nào nhân cách và giáo lý của họ được biết đến. Vì vậy họ bị căm thù bởi những kẻ gian ác, cũng như A-bên đã bị căm thù bởi Ca-in vô đạo. Vì cùng một lý do vì sao Ca-in giết hại A-bên, mà những kẻ tìm cách vứt bỏ sự kiềm tỏa của Thánh Linh đã sát hại dân sự của Đức Chúa Trời. Cũng vì cùng một lý do ấy mà người Do Thái chối bỏ và đóng đinh thập tự Đấng Cứu Độ – vì sự trong sạch và thánh khiết của nhân cách Ngài đã là một lời quở trách liên tục đối với sự ích kỷ và suy đồi của chúng. Từ những ngày của Đấng Christ cho đến nay, những môn đồ trung tín của Ngài đã khơi dậy lòng căm thù và sự chống đối của những kẻ yêu thích và đi theo đường lối tội lỗi. {GC 46.2}

Vậy thì, làm thế nào Tin Lành lại có thể được gọi là sứ điệp của bình an? Khi Ê-sai tiên tri về sự ra đời của Đấng Mê-si-a, ông đã gán cho Ngài danh hiệu “Chúa Bình An.” Khi các thiên sứ công bố cho những người chăn chiên rằng Đấng Christ đã giáng sinh, họ đã hát trên bình nguyên Bết-lê-hem: “Vinh quang cho Đức Chúa Trời trên nơi cao nhất, và bình an trên đất, thiện ý cho người!” (Luca 2:14). Có một sự dường như là mâu thuẫn giữa những lời tuyên bố tiên tri này và lời của Đấng Christ: “Ta đến không phải để đem hòa bình, mà gươm.” (Ma-thi-ơ 10:34). Nhưng, được hiểu đúng, cả hai điều ấy hoàn toàn hài hòa. Tin Lành là một sứ điệp của hòa bình. Cơ Đốc giáo là một hệ thống mà, khi được tiếp nhận và vâng phục, sẽ lan tỏa hòa bình, hòa hợp và hạnh phúc khắp đất. Tôn giáo của Đấng Christ sẽ gắn kết tất cả những người chấp nhận sự dạy dỗ của nó trong tình anh em khăng khít. Sứ mệnh của Jesus là hòa giải loài người với Đức Chúa Trời, và do đó, với nhau. Nhưng phần đông thế giới thì ở dưới sự kiểm soát của Satan, kẻ thù cay đắng nhất của Đấng Christ. Tin Lành trình bày cho họ những nguyên tắc sống hoàn toàn mâu thuẫn với thói quen và mong muốn của họ, và họ nổi dậy chống lại nó. Họ căm ghét sự trong sạch làm hiển lộ và kết án tội lỗi của họ, và họ bắt bớ và hủy diệt những người thúc giục lên họ những yêu cầu công chính và thánh khiết của nó. Chính trong nghĩa này – vì những chân lý cao cả mà nó mang đến gây ra sự căm thù và xung đột – mà Tin Lành được gọi là gươm. {GC 46.3}

Sự đặt định bí ẩn đã cho phép người công chính phải chịu sự bắt bớ dưới tay bọn gian ác đã là một căn nguyên gây ra những bối rối lớn cho nhiều người non yếu trong đức tin. Một số thậm chí còn sẵn sàng ném bỏ lòng tin tưởng của mình nơi Đức Chúa Trời vì Ngài cho phép những kẻ cặn bã nhất được thịnh vượng, trong khi những người tốt đẹp nhất và trong sạch nhất bị hành hạ và giày vò bởi quyền lực tàn ác của chúng. Câu hỏi được dấy lên: làm thế nào mà một Đấng vừa công chính vừa nhân từ, và là Đấng vô hạn về quyền năng, lại dung chịu những bất công và áp bức như vậy? Đây là một nghi vấn không can hệ gì đến chúng ta. Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta đủ bằng chứng về tình yêu thương của Ngài, và chúng ta không được hồ nghi sự tốt lành của Ngài chỉ vì không thể hiểu được sự vận hành của sắp đặt Ngài. Đấng Cứu Độ đã nói với các môn đồ Ngài, thấy trước những hồ nghi sẽ đè nặng lên linh hồn họ trong những ngày thử thách và bóng tối: “Hãy nhớ lời mà Ta đã nói với các con, Ðầy tớ không lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ Ta, họ cũng sẽ bắt bớ các con thôi.” Giăng 15:20. Jesus đã chịu thống khổ vì chúng ta nhiều hơn bất cứ ai trong những người theo Ngài có thể bị bắt phải chịu thống khổ bởi sự tàn ác của những kẻ gian ác. Những người được kêu gọi chịu đựng tra tấn và tử đạo chỉ đang đi theo dấu chân của Con Trai yêu dấu của Đức Chúa Trời mà thôi. {GC 47.1}

“Chúa không chậm trễ về lời hứa Ngài.” 2 Phi-e-rơ 3:9. Ngài không quên hay bỏ bê con cái Ngài; nhưng Ngài cho phép những kẻ gian ác bộc lộ bản chất thực sự của chúng, để không ai mong muốn thực hiện ý muốn của Ngài có thể bị lừa dối về chúng. Một lần nữa, những người công chính bị đặt vào lò lửa hoạn nạn, để chính bản thân họ có thể được thanh tẩy; để tấm gương của họ có thể thuyết phục những người khác về thực tiễn của đức tin và sự tin kính; và cũng để hành xử nhất quán của họ có thể kết án những kẻ vô đạo và vô tín. {GC 48.1}

Đức Chúa Trời cho phép bọn gian ác được thịnh vượng và phơi bày sự thù địch của chúng chống lại Ngài, để khi chúng đã đổ đầy lường tội ác của mình, tất cả đều có thể nhìn thấy công lý và lòng thương xót của Ngài trong sự hủy diệt hoàn toàn của chúng. Ngày báo thù của Ngài đang đến gần, khi tất cả những kẻ đã vi phạm luật pháp Ngài và đàn áp dân Ngài sẽ phải nhận sự báo ứng đích đáng cho việc làm của chúng; khi mọi hành động tàn ác hoặc bất công đối với những người trung tín của Đức Chúa Trời sẽ bị trừng phạt như thể đã làm với chính Đấng Christ. {GC 48.2}

Có một nghi vấn khác và quan trọng hơn nhiều nên thu hút sự chú ý của các hội thánh ngày nay. Sứ đồ Phao-lô tuyên bố rằng “tất cả những người muốn sống tin kính trong Đấng Christ JESUS đều sẽ bị bắt bớ.” 2 Ti-mô-thê 3:12. Vậy tại sao sự bắt bớ dường như trong một mức độ lớn lại có vẻ như đang ngủ vùi? Lý do duy nhất là hội thánh đã tuân theo tiêu chuẩn của thế gian và do đó không đánh thức bất cứ sự chống đối nào. Tôn giáo hiện hành trong thời đại chúng ta không phải là thứ có phẩm chất trong sạch và thánh khiết đã ghi dấu đức tin Cơ Đốc trong những ngày của Đấng Christ và các sứ đồ Ngài. Chỉ vì cái linh thỏa hiệp với tội lỗi, vì những chân lý vĩ đại của lời Đức Chúa Trời bị xem xét một cách thờ ơ, vì có quá ít sự tin kính cần thiết trong hội thánh mà Cơ đốc giáo dường như được ưa chuộng đến vậy đối với thế giới. Hãy có một sự hồi sinh của cái đức tin và quyền năng của hội thánh đầu tiên, và cái linh của sự bắt bớ sẽ được hồi sinh dậy, và ngọn lửa bắt bớ sẽ lại được đốt lên. {GC 48.3}