Nhóm 144000 là ai?

Tiên Tri Toàn Thư »

BÀI 22: NHÓM 144000 LÀ AI?

Sau khi đoán phạt cả Ai Cập cùng mọi thần tượng hư không của chúng bằng Mười Thảm Họa đầy quyền năng – biến toàn bộ cường quốc số một thế giới thời bấy giờ thành một bãi rác –

Đức Chúa Trời cuối cùng đã “thuyết phục” được Pha-ra-ôn trả tự do cho dân sự của Ngài.

Dân Chúa đang hạnh phúc tiến về phía Biển Đỏ thì vua Ai Cập lại cứng lòng đổi ý, mang cả quân đội của mình truy bắt,

và dồn họ vào đường cùng: trước mặt là biển, sau lưng là quân thù ([02] Xuất Hành 14:9).

Nhà tiên tri Mô-se liền cầu khẩn Đức Chúa Trời giải cứu.

Một con đường thần kỳ xuyên qua biển liền được mở ra.

“Và con cháu Is-ra-ên tiến vào giữa biển trên đất khô, và nước là bức tường cho họ ở bên phải họ và bên trái họ.” [02] Xuất Hành 14:22.

Cột mây tối mù mịt vây quanh vị Thiên Sứ của YHWH đã chuyển từ phía trước dân Is-ra-ên ra phía sau,

chắn giữa họ và những kẻ truy đuổi, ban ánh sáng cho dân Chúa, và ban bóng tối cho quân Ai Cập.

Mò mẫm trong ấy mà đuổi theo dân Is-ra-ên, những kẻ ngu dại quên mất mình đang chống lại Ai này

không biết rằng chúng đang phi xuống con đường đã được chuẩn bị sẵn làm mồ chôn của chúng.

Một vị Thần rực sáng khủng khiếp bất ngờ hiện ra trên đầu những kẻ điên dại, cúi xuống nhìn chúng đầy phẫn nộ ([02] Xuất Hành 14:24).

Bóng tối tan đi, hai màn nước khổng lồ ở hai bên đã có thể được nhìn rõ, và cơ hội để ăn năn đã hết.

Bè lũ gian ác này tức thì chết điếng người.

Kẻ nào vẫn còn đủ bình tĩnh để không ngất xỉu tại chỗ liền thu hết sức tàn còn lại để điều khiển thân thể run bần bật của chúng mà bỏ chạy, nhưng đã muộn.

Hai màn nước khổng lồ hai bên tức thì ụp cả xuống đầu chúng.

“Toàn bộ quân đội của Pha-ra-ôn, những kẻ đã tiến vào biển theo họ, chẳng còn lại một người nào trong bọn chúng nữa.” [02] Xuất Hành 14:28.

Chứng kiến quân lính Ai Cập phơi xác trên bãi biển, dân Chúa thảy đều cảm phục trước quyền năng vĩ đại của Đức Chúa Trời,

kính sợ và yêu mến Đấng đã chiến đấu bảo vệ họ ([02] Xuất Hành 14:30-31).

Và thế là bài thánh ca đầu tiên được ghi lại trong Kinh Thánh vang lên trên môi những người được giải cứu: bài ca chiến thắng của Mô-se ([02] Xuất Hành 15:1-18).

Cuộc giải cứu của dân Is-ra-ên chỉ là hình bóng của một cuộc giải cứu còn vĩ đại hơn nhiều sẽ xảy đến trong tương lai không xa.

Sách [27] Mặc Khải cho biết, ngày Chúa JESUS trở lại, sẽ lại có một nhóm người đặc biệt,

ca vang bài ca giải cứu vĩ đại, tôn vinh Đức Chúa Trời và Con Trai Ngài.

Hãy dành vài phút đọc lại phân đoạn [27] Mặc Khải 7:1-8[27] Mặc Khải 14:1-5 trước khi chúng ta cùng tiến vào bài giảng này.

1. Nhóm người ấy là ai?

[27] Mặc Khải 14:1-3 Và tôi nhìn xem, và kìa,

Chiên Con đứng trên núi Si-ôn,

và cùng Ngài là một trăm bốn mươi bốn nghìn người có danh Ngài và danh Cha Ngài ghi trên trán họ.

Và tôi nghe một tiếng từ trời như tiếng nhiều dòng nước và như tiếng sấm lớn.

Và tiếng tôi nghe như là của những người chơi đàn hạc đang chơi bằng đàn hạc của mình. 

Và họ hát một bài ca mới trước ngai và trước bốn sinh vật và các trưởng lão.

Và không người nào có thể học được bài ca ấy, ngoại trừ một trăm bốn mươi bốn nghìn người đã được chuộc khỏi đất.

2. Danh sách tên các bộ tộc của nhóm 144.000 trong [27] Mặc Khải 7:5-8 có phải là danh sách nguyên bản 12 bộ tộc ban đầu của Is-ra-ên không?

[01] Khởi Nguyên 48:5 [Gia-cốp nói với Giô-sép] Và bây giờ, hai đứa con trai của con,

những đứa đã được sinh cho con trong đất Ai Cập trước khi ta đến Ai Cập với con, Ép-ra-im và Ma-na-se, sẽ thuộc về ta.

Như Ru-bên và Si-mê-ôn, chúng sẽ thuộc về ta.

Đầu tiên, chúng ta cần để ý và nhận thấy có một sự bất cập kỳ lạ trong danh sách 12 cái tên này:

chúng không hẳn là tên 12 người con trai của Gia-cốp (hay Is-ra-ên).

Gia-cốp có 12 người con trai, nhưng vì Giô-sép đã từng bị các anh bán sang Ai Cập, nên Gia-cốp khi phân chia tài sản, đã coi hai người con trai của Giô-sép là Ma-na-se và Ép-ra-im ngang bằng với các con trai của mình.

Thế là nước Is-ra-ên về sau lại thành ra có 13 bộ tộc, vì “bộ tộc” Giô-sép được chia hẳn làm Ma-na-se và Ép-ra-im, trong đó bộ tộc Ép-ra-im vẫn có những lúc được gọi là bộ tộc Giô-sép ([04] Dân số 1:32).

Tuy nhiên, bộ tộc Lê-vi là các thầy tế lễ và những người hầu việc Chúa, lại được phân tán tản mác khắp cả quốc gia,

thế là còn 12 bộ tộc còn lại mỗi bộ tộc sống ở một vùng đất riêng.

Thế nhưng trong cái danh sách này, bên cạnh tên bộ tộc Giô-sép (hay Ép-ra-im) và bộ tộc Ma-na-se,

còn xuất hiện cả tên bộ tộc Lê-vi là những người hầu việc Chúa sống tản mác, trong khi tên của bộ tộc Đan thì lại bị khuyết (?!).

Tức là, danh sách này vừa chẳng phải là danh sách 12 người con trai của Is-ra-ên, cũng vừa chẳng phải là danh sách 12 bộ tộc sau này (vì khuyết mất Đan).

3. Vậy nếu đây là một danh sách thuộc linh chứ không phải danh sách nguyên bản 12 bộ tộc ban đầu của Is-ra-ên, thì nó có ý nghĩa thuộc linh gì?

Mỗi cái tên Hê-bơ-rơ ấy đều có câu chuyện ý nghĩa của nó cả.

Tra cứu trong [01] Khởi Nguyên, các phân đoạn 29:32-35; 30:8, 11, 13, 18, 20, 24; 35:1841:51,

những ý nghĩa đằng sau các cái tên ấy lần lượt là:

Giu-đa: Tôi ca ngợi Đức Chúa Trời.

Ru-bên: Đức Chúa Trời đã thấy (tôi).

Gát: (ban) may mắn.

A-se: tôi hạnh phúc biết bao.

Nép-ta-li: cuộc vật lộn của tôi.

Ma-na-se: (Đức Chúa Trời) đã làm cho tôi quên đi.

Si-mê-ôn: Đức Chúa Trời nghe thấy tôi.

Lê-vi: gắn bó với tôi.

Y-ca-sa: trả công/trả giá/mua (cho) tôi.

Sa-bu-lôn: món quà quý giá/ kho báu/ gia tài/ cơ nghiệp.

Giô-sép: ban (thêm) cho tôi.

Bên-gia-min: người con trai (của/ở) tay phải.

Ghép các cái tên ấy vào nhau theo đúng thứ tự trong [27] Mặc Khải 7:5-8, ta có:

Tôi ca ngợi Đức Chúa Trời (vì) Đức Chúa Trời đã thấy (tôi), (và ban) may mắn.

Tôi hạnh phúc biết bao (vì) cuộc vật lộn của tôi Đức Chúa Trời đã làm cho tôi quên đi.

Đức Chúa Trời nghe thấy tôi (và) gắn bó với tôi.

(Ngài) trả công (cho) tôi cơ nghiệp (và) ban cho tôi Người Con Trai bên tay phải Ngài.

Đây đơn thuần là bài ca cứu rỗi của nhóm 144.000, kể lại chính câu chuyện về kỳ công cứu chuộc mà Chúa đã làm cho họ mà thôi.

4. Thế còn con số 144.000, có phải là con số tượng trưng như danh sách tên ở trên không, hay là 144.000 người theo đúng nghĩa đen?

[27] Mặc Khải 7:4 Và tôi nghe số người được đóng ấn là: một trăm bốn mươi bốn nghìn.

Trong thư gửi gia đình Hastings chia buồn với họ sau khi bà Hastings vừa mất, bà Ellen G. White viết như sau:

‘Tôi đã thấy bà ấy [bà Hastings] đã được đóng ấn và sẽ trỗi dậy cùng tiếng phán của Đức Chúa Trời và đứng trên đất, và sẽ ở cùng nhóm 144.000.

Tôi đã thấy chúng ta không cần khóc thương cho bà ấy, bà ấy sẽ được nghỉ ngơi trong thời kỳ ngặt nghèo,

và tất cả những gì mà chúng ta cần phải khóc thương là cho chính tổn thất của chúng ta trong việc mất đi sự đồng hành của bà ấy.

Tôi thấy cái chết của bà ấy sẽ kết thúc tốt đẹp.’

{Các thông điệp chọn lọc (Selected Messages) quyển 2, 263.3, Thư số 10, 1850}

Lá thư cho biết bà Hastings, một nữ tín hữu thông thường không chức vụ của đức tin Phục Lâm ngày-thứ-bảy mất vào năm 1850

(thậm chí còn trước cả khi hội thánh được tổ chức đăng ký chính thức và được gọi theo tên ấy)

LÀ MỘT THÀNH VIÊN CỦA NHÓM 144.000 người.

Điều đó cho thấy nhóm người mang ấn của Đức Chúa Trời trên trán này đã bắt đầu được hình thành ngay từ khi công tác rao giảng sứ điệp ba thiên sứ bắt đầu được triển khai, trước năm 1850.

Và theo bà White, đó là con số chính xác 144.000 theo nghĩa đen chứ không phải một con số tượng trưng.

Câu hỏi nhóm 144.000 này là ai, có thực sự là một con số 144.000 theo nghĩa đen không đã được dấy lên từ lâu,

và Willy C. White, con trai của Ellen G. White, đã trả lời trong thư như sau:

‘Giờ đến câu hỏi: Bà White có dạy rằng những người đã chết trong sứ điệp từ 1844

và là những người được nói rằng “Từ nay trở đi, phước cho những người chết là chết trong Chúa”, rằng họ sẽ là thành viên của nhóm 144.000?

Tôi có thể đảm bảo với bạn, người anh em của tôi, rằng đó đã là niềm tin và giáo lý của Ellen G. White.

Rất nhiều lần tôi đã nghe bà ấy tuyên bố điều ấy, và tôi còn đang sở hữu một lá thư gửi người anh em Hastings

người được nhắc đến trong trang 237 của quyển Life Sketches mà bà ấy nói rất thẳng thừng rằng người vợ mới mất của ông ấy sẽ là một trong những thành viên của nhóm 144.000.

Trong một lá thư gần đây nhận từ một người anh em ở Reno, Nevada, có trích dẫn một lời tuyên bố trong sách của trưởng lão Loughborough tìm thấy trong trang 29,

có báo cáo rằng bà White đã nói:

“Những ai chết trong đức tin sẽ nằm trong nhóm 144.000.”

Tôi chắc chắn về việc này. Và tôi xin làm chứng, người anh em của tôi,

rằng điều đó hài hòa một cách hoàn hảo với các ghi chép, các phát ngôn và các dạy dỗ của bà ấy trong suốt toàn bộ những năm mục vụ của bà.’

{Lá thư của W. C. White (Letter of W. C. White), ngày 18 tháng 4, 1929}

Nhân tiện, Willy C. White này chính là cậu con trai mà bà White đã đào tạo và làm chứng rằng:

‘Tôi cũng đã được bày tỏ cho rằng con trai tôi, W. C. White, nên là người giúp đỡ và cố vấn của tôi,

và rằng Chúa sẽ đặt lên cậu ấy linh của sự khôn ngoan và của một tâm trí sáng suốt.

Tôi đã được cho thấy rằng Chúa sẽ hướng dẫn cậu ấy, và rằng cậu ấy sẽ không bị dẫn dụ đi mất,

vì cậu ấy sẽ nhận ra sự dẫn dắt và hướng dẫn của Thánh Linh.’

{Ellen G. White, Những thông điệp chọn lọc (Selected Messages) quyển 1, 54.3}

Và về nhóm 144.000, không chỉ Willy White tin như vậy,

CẢ HỘI THÁNH SDA thời các nhà Tiên Phong cũng tin như vậy.

James White tin vậy,

Loughborough tin như vậy,

Joseph Bates tin như vậy,

Andrews tin như vậy.

Ellen G. White tin như vậy.

Rằng con số 144.000 kia thực sự là đúng 144.000 người đúng theo nghĩa đen,

gồm tất cả các tín hữu chân chính của sứ điệp ba thiên sứ triển khai từ năm 1844!

Một giáo lý cơ bản của hội thánh SDA mà ngày nay đã bị chôn vùi.

Bởi có lý do rất hợp lý để nhiều người muốn chôn vùi chân lý này.

5. Từ khi hội thánh SDA hoạt động đến nay, đã có biết bao chục triệu tín đồ trong suốt quá trình lịch sử.

TẠI SAO LẠI CHỈ CÓ 144.000 NGƯỜI CÓ ẤN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI?

Tất cả những người còn lại vì sao không có?

[27] Mặc Khải 14:1 Và tôi nhìn xem, và kìa, Chiên Con đứng trên núi Si-ôn,

và cùng Ngài là một trăm bốn mươi bốn nghìn người có danh Ngài và danh Cha Ngài ghi trên trán họ.

Ấn của Đức Chúa Trời đầu tiên và căn bản nhất phải là danh Ngài và Con Trai Ngài trên trán cái đã,

tức là một sự hiểu biết chính xác về danh tính vị Đức Chúa Trời chân chính duy nhất và Con Trai Ngài ghi trong tâm trí.

Xem lại bài “Cha, Con và Thánh Linh” để nắm lại các nhà Tiên Phong đã tin và dạy như thế nào về chủ đề này.

Việc đánh mất tri thức chân lý trụ cột của đức tin này rõ ràng sẽ khiến cho hội thánh không thể nào nhận lãnh được ấn của Đức Chúa Trời nữa.

Việc chỉ có 144.000 người có ấn của Đức Chúa Trời trên trán, trong khi nhóm này bao gồm tất cả các tín hữu của đức tin SDA Tiên Phong từ khi sứ điệp ba thiên sứ bắt đầu được truyền giảng, năm 1844,

chính là bằng chứng hùng hồn nhất cho việc rõ ràng là dọc đường đi, chính hội thánh SDA trên quy mô tổ chức ĐÃ PHẢI BỊ SA NGÃ (bị tiêm nhiễm tà thuyết),

đánh mất sự nhận biết chính xác về Đức Chúa Trời và Con Trai Ngài, khiến họ không thể nhận lãnh ấn ấy được nữa,

và số người được đóng ấn dừng lại chứ không tăng lên theo số tín hữu mới của hội thánh.

{Ellen G. White, Phác họa cuộc đời của Ellen G. White (Life Sketches of Ellen G. White), 196.2}

‘Chúng ta chẳng có gì để sợ hãi cho tương lai cả, trừ phi chúng ta quên đi con đường Chúa đã dẫn dắt chúng ta, và giáo lý của Ngài trong lịch sử quá khứ của chúng ta.’

31 năm sau khi Ellen G. White ra đi, vào năm 1946, một người bị nghi là gián điệp tôn giáo của hội đồng Jesuit thuộc Công Giáo, tên là LeRoy E. Froom, cùng với đồng bọn

đã đọc vô số bản thảo của bà White để tìm ra bất kỳ câu từ nào mà khi lấy ra khỏi ngữ cảnh, gọt tỉa lại, có thể được sử dụng để ủng hộ giáo lý Đức Chúa Trời Ba Ngôi,

rồi tập hợp chúng lại thành quyển Evangelism để truyền bá và đưa tà thuyết Đức Chúa Trời Ba Ngôi ấy trở thành một trong 28 tín lý cơ bản của hội thánh,

thay đổi vị Thần mà hội thánh SDA thờ phượng, vi phạm luật pháp của Đức Chúa Trời, vốn nghiêm cấm việc thờ lạy thần tượng và tà thần.

{Ellen G. White, Cuộc Đại Chiến (The Great Controversy) 1888, 538.1}

‘Trong việc chối bỏ chân lý, con người chối bỏ Tác Giả của nó.

Trong việc giày đạp lên luật pháp của Đức Chúa Trời, họ chối bỏ thẩm quyền của Đấng Ban Luật.

Việc tạo ra một cái thần tượng của các giáo lý và học thuyết sai lạc cũng dễ dàng như dựng nên một cái thần tượng bằng gỗ hay đá vậy.

Bằng cách xuyên tạc các đặc tính của Đức Chúa Trời, Sa-tan dẫn dắt con người nhận thức về Ngài một cách sai lạc.

Với nhiều người, một thứ thần tượng triết lý được cho lên ngôi thay vào vị trí của Jehovah;

trong khi Đức Chúa Trời Hằng Sống, như Ngài đã được bày tỏ nơi Lời của Ngài, nơi Đấng Christ, và nơi các tạo vật, được tôn thờ chỉ bởi ít người…

Mặc dù ở trong một dạng thức khác, việc thờ lạy thần tượng đang tồn tại trong thế giới Cơ Đốc ngày nay cũng rõ rệt như nó đã tồn tại trong Is-ra-ên cổ xưa trong những ngày của Ê-li-gia.

Vị thần của nhiều kẻ tự xưng là người khôn ngoan, của các triết gia, thi nhân, chính trị gia, nhà báo, – vị thần của những hội nhóm sang chảnh bóng bẩy, của nhiều trường cao đẳng và đại học, thậm chí của một số tổ chức thần học,

chẳng mấy khá khẩm gì hơn so với Ba-anh, thần mặt trời của xứ Phoenicia.’

6. Giữa sự sa ngã ấy, vẫn cứ nổi lên nhóm 144.000 người này.

Đặc điểm nhận dạng của họ là gì?

Đặc điểm 1:

[27] Mặc Khải 14:1 một trăm bốn mươi bốn nghìn người có danh Ngài và danh Cha Ngài ghi trên trán họ.

Trong Kinh Thánh, trán là biểu tượng của tâm trí.

Việc có danh Chiên Con và danh Cha Chiên Con ghi trên trán đồng nghĩa với việc họ có một sự nhận biết CHÍNH XÁC Đức Chúa Trời chân chính duy nhất và Con Trai Độc Sanh của Ngài.

Sự nhận biết này sau đó mới phản ánh ra ngoài thành việc vâng giữ mạng lệnh thứ tư về ngày Sa-bát như một phần hiển nhiên của bộ luật bất biến Mười Mạng Lệnh.

Đây chính là Ấn của Đức Chúa Trời.

Độc giả có thể xem lại bài giảng đó để nắm rõ hơn.

Đặc điểm 2:

[27] Mặc Khải 14:4, 5 Đây là những người không bị ô uế với phụ nữ vì họ là những người trinh khiết…

Và trong miệng họ không tìm thấy điều dối trá nào.

Trong Kinh Thánh, “phụ nữ” là biểu tượng của các hội thánh.

Những người này không bị tiêm nhiễm một tà thuyết dối trá nào, từ bất cứ hội thánh bội đạo nào, dù là Ba-by-lon hay các con gái của nó.

{Ellen G. White, Lời chứng cho hội thánh (Testimonies for the church) quyển 1, 129.1}

‘Tôi thấy rằng Đức Chúa Trời đã ban cho các đầy tớ Ngài chân lý quá rõ ràng, quá thẳng thừng, đến nỗi nó KHÔNG THỂ BỊ CHỐNG CỰ NỔI.

Bất cứ nơi nào họ đi đến, họ đều sẽ có CHIẾN THẮNG CHẮC CHẮN.

Các kẻ địch của họ đều không thể vòng nổi qua chân lý quá thuyết phục ấy.

Ánh sáng đã được chiếu tỏa quá rõ ràng đến nỗi

các đầy tớ của Đức Chúa Trời có thể đứng lên ở bất cứ nơi nào và để ánh sáng, rõ ràng và nhất quán, tự đem đến chiến thắng.

Ơn phước lớn lao này đã chưa được trân trọng, hay thậm chí là được nhận ra.’

Nhóm 144.000 là những người hiểu chính xác tất cả các chân lý Kinh Thánh, kết hợp với việc đã có Chúa JESUS làm chủ hoàn toàn trong linh hồn mình,

họ trở thành đội quân bách chiến bách thắng của Ngài trên mọi đấu trường chân lý, trước mọi kẻ địch, chống lại bất cứ tà thuyết nào.

Nhưng điều đó cũng có nghĩa:

nếu một người để mình bị lừa cho tin nhận bất cứ một giáo lý dối trá ngu ngốc nào, người ấy lập tức không thể còn là thành viên của nhóm 144.000 này nữa, dù có vẫn được cứu hay không.

Đặc điểm 3:

[27] Mặc Khải 14:4 Đây là những người đi theo Chiên Con bất cứ nơi nào Ngài đi.

Đây là những người đã đầu phục Chúa hoàn toàn, không phải các Cơ Đốc nhân ỡm ờ thường thấy trong thời đại này.

Thêm vào đó, đặc điểm “lẽo đẽo đi theo Chúa JESUS” này nếu kết hợp với con số 12.000 x 12 lần kia, là một ám chỉ rất mạnh đến nhóm 12 sứ đồ của Chúa JESUS.

Cá nhân tôi tin rằng dữ liệu như vậy là đủ mạnh để nhận biết nhóm này là nhóm “các Sứ Đồ” của Ngài trong những ngày cuối cùng,

là thành phần chủ lực của đội quân Ngài trong những Cơ Đốc nhân thành tâm và tận hiến,

nổi trội hơn những người còn lại đơn thuần vì họ hiểu chính xác tất cả các Chân Lý Kinh Thánh (đặc điểm 2).

Kết luận:

Ta có thể thấy nhóm 144.000 người này gồm hai nhóm sau:

1) Những người được đóng ấn thuộc thời của bà White, chết trước khi cả hội thánh sa ngã, như trường hợp của bà Hastings.

2) Những người được đóng ấn trong những ngày cuối cùng ngay trước khi Chúa trở lại, khi Đức Chúa Trời nỗ lực phục hồi sự hiểu biết chính xác về Ngài trong hội thánh SDA,

sau khi hội thánh đã bị lạc đường và tin nhận giáo lý ba ngôi, thay đổi vị Đức Chúa Trời mà họ thờ phượng.

Có rất, rất ít người sẽ tiếp nhận sự sửa trị này,

ít đến mức tổng quân số của họ, cộng với những người đã chết từ thời bà White, mới chỉ được 144.000 mà thôi.

Đây là số người ít ỏi vừa vâng giữ chính xác Mười Mạng Lệnh của Đức Chúa Trời, bao gồm cả mạng lệnh thứ nhất lẫn thứ tư,

vừa có lời chứng của Chúa JESUS ([27] Mặc Khải 12:17), kế thừa các ghi chép của nhà tiên tri Ellen G. White mà Chúa đã ban cho hội thánh.

{Ellen G. White, Lời chứng cho hội thánh (Testimonies for the church) quyển 5, 136.2}

‘Đứng vững bảo vệ chân lý và lẽ công chính khi số đông bỏ rơi chúng ta, chiến đấu các trận chiến của Chúa khi các dũng sĩ chỉ còn ít ỏi

– ấy sẽ là bài kiểm tra của chúng ta.’

{Ellen G. White, Thư từ và bản thảo (Letters and Manuscripts) quyển 6, bản thảo 6, 1889, khổ 39-40}

‘Đâu sẽ là sự phân biệt khỏi những kẻ giữ ngày thứ nhất?

Chúng ta sẽ được nhận biết là dân sự giữ ngày Sa-bát của Đức Chúa Trời như thế nào?…

Hai hàng ngũ sẽ đứng phân biệt và tách rời,

và sự phân biệt này sẽ quá rõ ràng đến mức nhiều người là những người sẽ chịu thuyết phục bởi chân lý sẽ đi sang phe những người vâng giữ các mạng lệnh của Đức Chúa Trời.

Khi công việc lớn lao này xảy đến trên chiến trường, ngay trước cuộc xung đột hạ màn sau cùng,

nhiều người sẽ bị bỏ tù, nhiều người sẽ chạy trốn cứu mạng mình khỏi các thành phố và thị trấn,

nhiều người sẽ là các tử đạo nhân vì cớ Đấng Christ trong khi đứng vững bảo vệ Chân Lý.’

7. Chuyện gì sẽ xảy ra với tất cả những anh em Phục Lâm ngày-thứ-bảy tin nhận phải cái giáo lý Đức Chúa Trời Ba Ngôi?

Họ có hư mất oan uổng cả rồi không?

[10] Ê-phê-sô 2:8 Vì bởi ân điển các bạn được cứu qua đức tin.

Thật may là chúng ta được cứu không phải nhờ hiểu đúng giáo lý mà nhờ tin nhận Chúa JESUS,

nên không phải cả nhóm này đều hư mất hết, mà chỉ có một phần mà thôi.

Đó là những người đã được Chúa ban cho cơ hội để học biết chân lý, nhưng đã không chịu tận dụng,

hoặc thậm chí chủ tâm chối bỏ Chân Lý đến cùng – đến mức Thánh Linh đã rời bỏ khỏi họ – thì chắc chắn là chẳng còn hy vọng gì nữa rồi.

Lời tiên tri trong [26] Ê-xê-chi-ên chương 8 và 9 cho chúng ta biết,

đứng đầu trong số những người này sẽ là phần lớn (nhưng có lẽ không phải tất cả) những người được coi là các trưởng lão,

các lãnh đạo hội thánh tại thời điểm Chúa tái lâm, nhưng đã bội đạo và biến chất, trong tâm không còn trung thành với Ngài.

Còn những người còn lại, đã hết lòng bước theo Chúa với lượng ánh sáng mà họ đã nhận được thì vẫn đã đạt đủ yêu cầu để được cứu.

Họ là những người đã chết trong đức tin trước khi Chúa tái lâm, đồng thời họ hoặc chưa từng có cơ hội tìm hiểu sự thật về vấn đề này,

hoặc đang lưỡng lự, chưa tìm hiểu xong để ra quyết định, Thánh Linh vẫn đang làm việc trên họ thì họ chết.

Nhóm này chết trong đức tin, vẫn đang có Thánh Linh ấn chứng, và do vậy vẫn sẽ được cứu, mặc dù họ vẫn đang bị hiểu sai chút giáo lý.

Họ chính là số mấy chục triệu người nằm ở giữa hai nhóm tạo nên nhóm 144.000, tuy nhiên họ không nằm trong nhóm 144.000 ấy.

{Ellen G. White, Tư vấn về sức khỏe (Counsels on Health), 375.2}

‘“Như người cha thương xót con cái mình, YHWH thương xót những người kính sợ Ngài.

Vì Ngài biết kết cấu của chúng ta, nhớ rằng chúng ta là đất bụi.” Thi Ca 103:13, 14.

Ngài biết trái tim của chúng ta, vì Ngài đọc được từng bí ẩn của tâm hồn.

Ngài biết liệu những người mà vì họ lời khấn nguyện được dâng lên có thể chịu được thử thách sẽ ập lên họ nếu họ sống hay không.

Ngài biết kết thúc từ khi khởi đầu.

Rất nhiều người sẽ được đưa đi an nghỉ trước khi lò lửa thử thách của những ngày hoạn nạn ập lên thế giới của chúng ta.

Đây là một lý do nữa vì sao chúng ta nên nói sau lời cầu nguyện chân thành nhất của mình rằng;

“Dù vậy, không phải ý của con, mà của Cha, được nên.” Lu-ca 22:42.

Một lời cầu nguyện như vậy sẽ không bao giờ bị đăng ký trên thiên đường như là một lời cầu nguyện vô tín.’

Đã có rất nhiều người thuộc mọi hội thánh khác nhau

vì một lý do gì đó đã không có cơ hội tiếp nhận các chân lý về Đức Chúa Trời, bao gồm cả sự thật về tà thuyết Ba Ngôi và cả ngày Sa-bát,

nhưng vẫn thực sự hết lòng trung tín với Chúa, đã được Ngài chấp nhận cho đi an nghỉ trước khi Ngài trở lại.

Chúa đã biết trước họ sẽ không trụ nổi trận chiến cuối cùng “Dấu của Con Thú”, nên trong sự nhân từ của Ngài, đã cất giữ họ đi an toàn từ trước.

Những người thuộc diện này nhưng ở trong hội thánh SDA chính là mấy chục triệu người nằm ở khoảng giữa 2 nhóm tạo nên đội quân 144.000.

Nhưng điều đó cũng có nghĩa, những ai không nằm trong diện được cất giữ đi từ trước, vẫn còn sống tới tận lúc Chúa trở lại

và bị Ngài bắt gặp vẫn còn đang xì xụp thờ lạy thần Ba Ngôi của Con Thú, thì thật là không may.

8. Điều gì sẽ xảy ra với những người nằm trong nhóm 144.000 nhưng đã chết, như bà White và bà Hastings?

{Ellen G. White – Linh Tiên Tri (Spirit of Prophecy) quyển 4, 453.1 – 454.1}

‘Vào nửa đêm là lúc Đức Chúa Trời hiển lộ quyền năng của Ngài để giải cứu dân sự Ngài.

Mặt trời xuất hiện chiếu sáng với sức mạnh của nó.

Những dấu lạ và phép màu giật mình xảy ra liên tiếp.

Những kẻ gian ác nhìn lên với sự khiếp sợ và kinh ngạc trước quang cảnh ấy,

trong khi những người công chính chiêm ngưỡng với niềm vui trang nghiêm những dấu hiệu sự giải cứu của họ.

Mọi thứ trong tự nhiên dường như đều bật ra khỏi quy luật tự nhiên.

Các dòng suối ngưng chảy.

Những đám mây tối mịt, nặng nề mọc lên, lao vào nhau.

Giữa bầu trời giận dữ là một khoảng không trống trải với ánh sáng vinh quang không thể diễn tả nổi,

mà từ đó tiếng của Đức Chúa Trời như tiếng nhiều dòng nước phán xuống rằng “Xong”.

Tiếng ấy làm rung chuyển cả các tầng trời và đất.

Có một trận động đất mạnh mẽ xảy ra.

Bầu trời như mở ra đóng lại.

Vinh quang từ ngai Đức Chúa Trời như lấp loáng chiếu qua.

Các ngọn núi run lên như cây sậy trước gió, và đá vỡ văng tung tóe khắp nơi.

Có một tiếng gầm như của một cơn bão đang đến.

Cả biển bị quấy lên cuồng loạn.

Tiếng rú của bão tố có thể nghe thấy được, như âm thanh của quỷ dữ trong sứ mệnh hủy diệt.

Cả trái đất hổn hển và mưng lên như những đợt sóng của biển cả.

Bề mặt của nó vỡ tung ra.

Cả nền móng nó dường như sắp sập.

Những dãy núi chìm xuống.

Những hòn đảo có dân cư biến mất cùng với những đoàn thuyền của chúng.

Các cảng biển đã trở nên như Sô-đôm về sự gian ác bị nuốt mất bởi màn nước giận dữ.

Những trận mưa đá lớn, mỗi viên “nặng khoảng một ta-lâng” [Mặc Khải 16:21] đang làm công việc hủy diệt của chúng.

Những thành phố kiêu ngạo nhất trên đất bị hạ bệ.

Những biệt thự đắt đỏ, mà trên đó những kẻ vĩ đại của thế gian đã phung phí sự giàu có để tôn vinh bản thân mình,

đang sụp xuống thành đống đổ nát ngay trước mắt chúng.

Những bức tường nhà tù bị xé rách,

và dân sự của Đức Chúa Trời, những người đã bị giam giữ vì đức tin của họ, đã được thả tự do.

Các mồ mả mở ra, và “nhiều người ngủ trong bụi đất” “thức dậy, những người này đến với sự sống vĩnh cửu,

và những kẻ kia đến với sự nhục nhã ghê tởm vĩnh cửu.” [Đa-ni-ên 12:2].

Tất cả những người đã chết trong đức tin dưới sứ điệp của vị thiên sứ thứ ba 

bước ra khỏi mồ mả được tôn vinh, 

để nghe giao ước bình an của Đức Chúa Trời với những người đã giữ luật pháp Ngài.

“Những kẻ đã đâm Ngài,” những kẻ đã mỉa mai và nhạo báng nỗi đau đớn lúc lâm chung của Đấng Christ,

và những kẻ đàn áp hung bạo nhất chân lý của Ngài và dân sự của Ngài, được dựng dậy để chiêm ngưỡng Ngài trong vinh quang Ngài,

và để thấy tận mắt vinh dự được đặt trên những người trung tín và vâng phục.’

Sẽ có một sự kiện hồi sinh đặc biệt xảy ra trước sự kiện hồi sinh hàng loạt của tất cả những người công chính và chỉ duy nhất những người công chính, được nói đến trong bài “Ngày Tận Thế“.

Và trong sự kiện hồi sinh này, theo [27] Đa-ni-ên 12:2, sẽ có cả người công chính lẫn kẻ gian ác.

Cùng với những kẻ mà Chúa JESUS đã thẳng thừng phán cùng rằng:

“Sau này các ngươi sẽ thấy Con Trai Loài Người ngồi bên phải của quyền năng và đến trên mây trời” ([01] Ma-thi-ơ 26:64),

được dựng dậy để chịu nỗi nhục nhã ghê tởm vĩnh cửu, những thành viên đã chết của nhóm 144.000 – kể cả những người đã chết do tử đạo nếu có – cũng sẽ được hồi sinh.

Tất cả các thành viên của nhóm 144.000 đều sẽ được nghe giao ước bình an của Đức Chúa Trời trước khi chứng kiến Chúa từ xa ngự đến.

{Ellen G. White – Những ghi chép ban đầu (Early Writtings), trang 14}

Những thánh đồ đang sống, với số lượng 144.000, biết và hiểu tiếng nói ấy, trong khi những kẻ gian ác tưởng ấy là sấm sét và một cơn động đất.’

9. Chúng ta đã gần đến Ngày Tận Thế như thế nào rồi?

[27] Mặc Khải 7:3-4 “Đừng làm hại đất, hay biển, hay các cây cối,

cho đến khi chúng ta đã đóng ấn các đầy tớ của Đức Chúa Trời chúng ta trên trán họ!”

Và tôi nghe số người được đóng ấn là: một trăm bốn mươi bốn nghìn.

Có thấy chữ “cho đến khi” trong câu Kinh Thánh không ạ?

Tức là một khi việc đóng ấn hoàn tất, việc làm hại sẽ bắt đầu (thời giờ ăn năn khép lại, bắt đầu chuyển sang 7 thảm họa cuối cùng).

{Ellen G. White, Linh Tiên Tri (Spirit of Prophecy) quyển 4, 431.2}

‘Một vị thiên sứ trở về từ trái đất công bố công việc của mình đã hoàn tất, rằng ấn của Đức Chúa Trời đã được đóng trên dân Ngài.

Bấy giờ JESUS ngừng công tác cầu thay của Ngài trong đền thánh ở trên.

Ngài đưa tay Ngài lên, và với một giọng lớn phán: “Xong!”

Và toàn thể quân đội thiên sứ bỏ vương miện của mình xuống khi Ngài tuyên phán lời công bố trang nghiêm:

“Kẻ nào bất chính, kẻ ấy hãy cứ bất chính, và kẻ nào ô uế, kẻ ấy hãy cứ ô uế,

và người nào công chính, người ấy hãy cứ công chính, và người nào thánh khiết, người ấy hãy cứ thánh khiết.” Mặc Khải 22:11.

Mọi trường hợp đều đã được định đoạt cho sự sống hay cái chết.

Đấng Christ đã cử hành lễ đền chuộc cho dân Ngài, và xóa bỏ tội lỗi họ.

Số lượng thần dân của Ngài đã được ấn định.’

Chỉ khi công tác đóng ấn của Đức Chúa Trời hoàn tất, thời giờ để ăn năn mới khép lại được.

Việc truyền bá các chân lý Kinh Thánh chính xác để quy tụ đủ đạo quân 144.000 người này chính là chìa khóa để đẩy nhanh ngày tái lâm của Chúa JESUS.

Được kêu gọi vào đoàn quân này chính là vinh dự cao nhất mà một người có thể nhận được từ Chúa, kèm theo trọng trách khốc liệt nhất cho thời đại Cận Tận Thế này.

10. Phần thưởng đặc biệt dành cho nhóm 144.000 sẽ là gì?

Trích đoạn từ lời chứng của Ellen G. White, một khải tượng mà bà nhận được về nơi-mà-tội-lỗi-không-còn-nữa, trong đó có một đền thờ ở ngoài thành Giê-ru-sa-lem Mới trên đỉnh Si-ôn:

{Ellen G. White, Những ghi chép ban đầu (Early Writings), 18.2-19.1}

‘Khi chúng tôi đang đi dọc đường, chúng tôi gặp một nhóm cũng đang nhìn lên vinh quang của nơi ấy.

Tôi nhận thấy màu đỏ ở viền y phục họ, vương miện của họ thì rực rỡ, áo choàng họ thì trắng tinh.

Khi chúng tôi chào họ, tôi hỏi JESUS họ là ai.

Ngài bảo họ là những tử đạo nhân đã bị sát hại vì Ngài.

Đi cùng họ là một nhóm không đếm xuể những đứa trẻ nhỏ; chúng cũng có gấu áo màu đỏ trên y phục mình.

Đỉnh Si-ôn ở ngay trước chúng tôi, và trên đỉnh là một đền thờ vinh hiển,

và quanh nó là bảy ngọn núi khác, mà trên ấy mọc những hoa hồng và hoa ly.

Và tôi thấy những đứa nhỏ trèo, hoặc, nếu chúng chọn, sử dụng những cái cánh bé nhỏ của mình và bay, lên đỉnh các núi và nhổ những bông hoa không bao giờ phai tàn.

Có mọi loại cây quanh đền thờ để điểm trang cho nơi ấy: cây hoàn dương, cây tùng, cây thông, cây dầu, cây sim, cây lựu, và cây vả trĩu xuống với sức nặng của những quả vả đúng thì

– những thứ này làm cho nơi ấy toàn phần vinh hiển.

Và khi chúng tôi chuẩn bị tiến vào đền thờ thánh, JESUS cất thanh âm đáng mến của Ngài và phán,

Chỉ nhóm 144.000 được tiến vào nơi này,”

và chúng tôi thét lên, “A-lê-lu-ia.”

Đền Thờ này được nâng đỡ bởi bảy cột trụ,

tất cả bằng vàng trong suốt,

khảm bằng ngọc trai vinh hiển tột cùng.

Những điều tuyệt vời tôi thấy ở đó tôi không thể miêu tả nổi.

Ôi, giá mà tôi có thể nói được ngôn ngữ của Ca-na-an, bấy giờ tôi có thể thuật lại một chút vinh quang của thế giới tốt đẹp hơn ấy.

Tôi đã nhìn thấy những tấm bảng đá mà trên ấy tên của 144.000 người được khắc bằng chữ vàng.

Sau khi chúng tôi chứng kiến vinh quang của Đền Thờ ấy, chúng tôi đi ra, và JESUS đã rời khỏi chúng tôi và đi vào thành.

Chúng tôi sớm lại nghe được thanh âm đáng mến của Ngài, phán,

“Hãy đến, dân Ta,

các con đã ra khỏi cơn hoạn nạn lớn,

và thực thi ý Ta, chịu khổ vì Ta,

hãy vào ăn tiệc, vì Ta sẽ thắt lưng mình, và phục vụ các con.”

Chúng tôi thét lên, “A-lê-lu-ia! Vinh hiển thay!” và tiến vào thành phố.

Và tôi nhìn thấy một cái bàn bằng bạc tinh ròng,

nó dài nhiều dặm, mà mắt của chúng ta vẫn nhìn hết được nó.

Tôi nhìn thấy trái của cây sự sống, ma-na, hạnh nhân, vả, lựu, nho, và nhiều loại trái khác nữa.

Tôi xin JESUS hãy cho tôi ăn trái cây ấy.

Ngài phán, “Chưa phải bây giờ.

Những người ăn trái cây của đất này sẽ không còn quay trở lại trái đất nữa.

Nhưng chỉ trong một khoảng thời gian nữa, nếu trung tín, con sẽ được ăn cả trái cây sự sống lẫn uống nước của nguồn ấy.

Và Ngài phán, “Con phải quay trở lại trái đất và thuật lại cho những người khác những gì Ta đã bày tỏ cho con.”

Rồi một thiên sứ nhẹ nhàng mang tôi xuống thế giới tăm tối này.

Đôi khi tôi nghĩ mình không thể ở đây thêm nổi nữa; mọi thứ của trái đất đều trông thật thê lương.

Tôi cảm thấy vô cùng cô đơn ở đây, vì tôi đã được nhìn thấy một vùng đất tốt đẹp hơn.

Ôi giá mà tôi có cánh như bồ câu, thì tôi sẽ bay đi và được nghỉ ngơi!’

{Ellen G. White, Ân tứ thuộc linh (Spiritual Gifts) quyển 2, 55.1-56.4}

‘Người anh em Wm. H. Hyde người đã có mặt, đã sáng tác những vần thơ ca này,

được lan truyền trên các tờ báo tín ngưỡng, và đã lọt được vào vài quyển sách thánh ca.

Những người đã đăng tải, đọc và hát chúng ít biết được rằng

chúng phát xuất từ một khải tượng của một cô bé, bị bắt bớ vì những lời chứng khiêm nhường của mình.

Xứ Tốt Đẹp Hơn.

“Chúng tôi đã nghe từ vùng đất thánh rực rỡ,
Chúng tôi đã nghe, và trái tim chúng tôi mừng rỡ
Vì chúng tôi chỉ là một nhóm tha nhân cô độc
Và mỏi mệt, và rách rưới, và buồn bã.

Người ta bảo chúng tôi ở đó tha nhân có một mái nhà—
Không còn là những người vô gia cư nữa;
Và chúng tôi biết vùng đất tốt lành ấy đẹp đẽ,
Nơi suối tinh khiết của sự sống chảy qua.

Người ta bảo các cánh đồng ở đó biết vẫy gọi,
Chẳng bao giờ biết đến tàn héo;
Và đồng hoang nở rộ đẹp tươi,
Và hoa hồng Sa-rôn mọc lên phơi phới.

Có những chú chim đáng yêu nơi cây cối—
Bài ca của chúng ngọt ngào và yêu đời;
Và tiếng véo von chúng hằng mới mẻ,
Bản nhạc các thiên sứ chào vui.

Chúng tôi đã nghe về cành cọ, áo choàng, vương miện,
Và đoàn người ánh bạc trắng tinh,
Về thành đẹp đẽ với cổng ngọc trai,
Tất cả sáng láng hiển vinh.

Chúng tôi đã nghe về các thiên sứ và các thánh,
Thể nào họ ca hát với đàn hạc vàng mình,
Về đỉnh núi, với cây sự sống xum xuê,
Về thứ lá đem lại sự chữa lành.

Vị Vua của xứ ấy, Ngài đẹp thay,
Ngài là niềm vui và ánh sáng nơi đây
Trong vẻ đẹp Ngài chúng tôi sẽ chiêm bái Ngài ở đó
Và đắm mình trong gương mặt mỉm cười Ngài.

Chúng tôi sẽ ở đó, chúng tôi sẽ ở đó, ít lâu nữa thôi
Chúng tôi sẽ hòa cùng những người tinh sạch và được phước
Chúng tôi sẽ có cành cọ, áo choàng, vương miện,
Và sẽ mãi mãi được nghỉ yên.”‘

{Ellen G. White, Các ghi chép ban đầu (Early Writtings), p.39.3}

‘Chúa đã cho tôi xem các thế giới khác.

Cánh đã được ban cho tôi, và một thiên sứ đã chăm gìn tôi từ thành phố lên một nơi sáng lạn và vinh quang.

Cỏ của nơi ấy xanh một cách sống động, và chim chóc líu lo một bài ca ngọt ngào.

Các cư dân của nơi ấy có đủ mọi kích cỡ; họ cao quý, hùng tráng, và đáng mến yêu.

Họ mang hình ảnh biểu hiện của JESUS,

và diện mạo họ rạng rỡ với niềm vui thánh khiết, bày tỏ sự tự do và hạnh phúc của nơi ấy.

Tôi đã hỏi một trong số họ vì sao họ đáng yêu mến hơn quá nhiều so với những người trên trái đất.

Câu trả lời đã là, “Chúng tôi đã sống trong sự vâng phục tuyệt đối các mạng lệnh của Đức Chúa Trời,

và đã không sa ngã bởi sự bất vâng phục, như những người ở trên trái đất.”

Sau đó tôi thấy hai cái cây, một cái trông rất giống cái cây sự sống trong thành.

Trái của cả hai cây đều trông rất đẹp, nhưng một cây thì họ không thể ăn.

Họ có năng lực để ăn từ cả hai, nhưng đã bị cấm ăn từ một cây.

Sau đó vị thiên sứ chăm gìn tôi nói với tôi,

“Không một ai ở nơi đây đã từng ăn từ cái cây cấm; nhưng nếu họ ăn, họ sẽ sa ngã.”

Sau đó tôi được đem đến một thế giới có bảy mặt trăng.

Ở đó tôi nhìn thấy Ê-nóc lương thiện xưa, người đã được cất lên.

Trên tay phải mình, ông mang một cành cọ vinh hiển, và trên mỗi lá có ghi “Chiến Thắng.”

Quanh đầu ông có một vòng trắng chói sáng, và các lá trên vòng, và ở giữa mỗi lá có ghi “Trong Sạch,”

và quanh vòng là các viên đá nhiều màu sắc, chiếu sáng rực rỡ hơn các vì sao, và phản chiếu trên các chữ và phóng đại chúng.

Ở phía sau đầu ông là một vòng cầu cầm giữ vòng ấy, và trên vòng cầu có ghi “Thánh Khiết.”

Phía trên vòng là một mão miện đáng yêu mến chiếu sáng hơn mặt trời.

Tôi đã hỏi ông ấy liệu đây có phải là nơi ông ấy đã được đem đến từ trái đất.

Ông ấy bảo, “Không phải; thành mới là nhà của ta, và ta đã đến để thăm nơi này.”

Ông ấy di chuyển quanh nơi ấy như thể hoàn toàn đang ở nhà vậy.

Tôi van xin vị thiên sứ chăm gìn tôi hãy để tôi được ở lại nơi đó.

Tôi không thể chịu nổi suy nghĩ lại phải quay trở xuống thế giới tăm tối này.

Bấy giờ vị thiên sứ nói,

“Ngươi phải quay lại, và nếu ngươi trung tín,

ngươi, cùng với nhóm 144.000,

sẽ có đặc quyền được thăm viếng tất cả các thế giới

và chiêm bái tạo tác của Đức Chúa Trời.”’

11. Ngay bây giờ, phong trào kêu gọi trở lại với các chân lý Kinh Thánh vĩ đại đã được Chúa tái lập trở lại từ thời của Ellen G. White đang nhanh chóng gia tăng quân số cho nhóm 144.000.

Với sự lan truyền của các chân lý cột trụ đức tin đã được ban cho những người SDA Tiên Phong như đã được trình bày trong loạt bài Tiên Tri Toàn Thư này,

bóc trần mọi tà thuyết cả trong lẫn ngoài hội thánh SDA, quân số của nhóm 144.000 sẽ sớm được đổ đủ.

Và ngay khi nó được đổ đủ, thì giờ để ăn năn cho cả nhân loại sẽ thình lình khép lại, và rồi Chúa sẽ tái lâm kết thúc thế giới.

{Ellen G. White, Công Nhân Tin Lành (Gospel Workers 1892), 157.1}

‘Satan biết rõ rằng thành công chỉ có thể đến cùng sự trật tự và hài hòa trong hành động.

Hắn biết rõ rằng mọi thứ liên hệ với Thiên Đường đều ở trong trật tự hoàn hảo,

rằng sự thuận phục và kỷ luật triệt để là dấu ấn hành quân của quân đội các thiên sứ.

Nỗ lực được nghiên cứu của hắn là dẫn dắt những người xưng là Cơ Đốc nhân xa khỏi sắp xếp của Thiên Đường nhất mà hắn có thể;

bởi vậy hắn lừa dối ngay cả dân sự xưng nhận Đức Chúa Trời,

và khiến họ tin rằng trật tự và kỷ luật là kẻ thù của thuộc linh; rằng an toàn duy nhất cho họ là để mỗi người tự theo đuổi đường riêng của mình,

và đặc biệt giữ khoảng cách khỏi các nhóm Cơ Đốc nhân đang hiệp một, và đang lao khổ để thiết lập sự kỷ luật và hài hòa trong hành động.

Mọi nỗ lực để thiết lập trật tự đều bị coi là nguy hiểm, một sự hạn chế quyền tự do, và như vậy bị e sợ là chuyên quyền công giáo.

Những linh hồn bị lừa dối này coi là một phẩm hạnh cái việc khoe về sự tự do tư duy và hành động độc lập của mình.

Họ sẽ không tiếp nhận lời bất cứ người nào.

Họ không chịu phục tùng bất cứ người nào.

Tôi đã được cho thấy rằng công việc đặc biệt của Satan là dẫn dắt con người cảm thấy rằng

lệnh của Đức Chúa Trời là họ hãy lạc loài bản thân mình ra,

và chọn lấy đường riêng mình, độc lập khỏi các anh em họ.’

Vậy bạn sẽ làm theo ý muốn của Ma Quỷ,

tách mình khỏi đoàn quân cuối cùng của Chúa,

HAY sẽ cùng hiệp lực với chúng tôi trong đoàn quân 144.000

dưới Đấng Christ JESUS Con Trai Độc Sanh của Đức Chúa Trời,

và ngày ngày vươn cao hơn lên Ngài

để sẵn sàng đón nhận cơn mưa cuối mùa từ Ngài?

Phụ lục

I. Bài học đau thương của hội thánh Phục Lâm ngày-thứ-bảy (Seventh-day Adventists) năm 1888,

sự xâm nhập của tà thuyết ba ngôi vào hội thánh SDA sau khi Ellen G. White qua đời,

sự phân chia ra hai nhánh: nhánh Hiện Đại theo ba ngôi

và nhánh Tiên Phong bám chắc và kêu gọi trở về các chân lý Chúa đã ban cho các nhà Tiên Phong hội.

Năm 1888, hội thánh SDA khi ấy đang dần lãng quên Chúa JESUS vì mải tập trung vào Mười Mạng Lệnh, nhất là mạng lệnh thứ 4 về ngày Sa-bát.

Vào Đại Hội năm ấy, Chúa sai 2 đầy tớ của Ngài trong hội thánh là Waggoner và Jones đến để truyền giảng cho cả hội chân lý về sự công chính bởi đức tin,

có nội dung về cơ bản nhấn mạnh vào điểm:

Chúa JESUS không chỉ là Đấng đã chết thay cho tội lỗi chúng ta để xưng công chính cho chúng ta qua đức tin, mà còn là Đấng giữ cho chúng ta vâng giữ Mười Mạng Lệnh của Đức Chúa Trời qua việc sống trong chúng ta.

Ngài là sự đầy trọn của toàn bộ luật pháp Đức Chúa Trời, bao gồm cả các giáo lễ chỉ đến Ngài mà ngày nay chúng ta không còn cần phải tuân giữ,

lẫn luật pháp Mười Mạng Lệnh của Đức Chúa Trời mà chúng ta vẫn còn trách nhiệm tuân giữ trong Đấng Christ.

Vì vậy, tín hữu cần tập trung vào Chúa JESUS, đầu phục và bám giữ Ngài làm chủ nhân trong linh hồn mình,

qua đó, Chúa sẽ đem lại bình an và sức sống công chính, và họ sẽ tự động vâng giữ các mạng lệnh của Đức Chúa Trời.

Thông điệp này đã được tính toán để đưa đến cho hội thánh SDA trong tình trạng của họ ngày ấy,

không những để vực họ dậy mà còn để làm tan vỡ trái tim toàn bộ các tín hữu, sẵn sàng họ cho đợt “mưa cuối” đúng ra đã có thể bắt đầu đổ xuống ngay khi ấy.

Thế nhưng khi sứ điệp được đưa ra, gần như cả hội thánh, chỉ trừ bà White và một số nhân vật trung tín cốt lõi, đều đã thẳng thừng chối bỏ.

Sau khi bà White chết đi năm 1915, ân tứ “Linh Tiên Tri” cũng bị rút đi luôn khỏi hội thánh, không có nhà tiên tri kế nhiệm nào được dấy lên nữa.

Trong suốt thời đại của nhà tiên tri Ellen G. White và các nhà Tiên Phong sáng lập hội thánh SDA, họ đã không hề tin vào giáo lý Đức Chúa Trời Ba Ngôi.

Họ thậm chí còn làm thơ nhạo báng và chê cười cái tà thuyết này, đăng lên thời báo chính thức của hội thánh – tờ Review & Herald –

bài thơ mà Tiên Tri Toàn Thư đã rất hân hạnh đăng trong phụ lục cuối bài Hội Thánh Thật Cuối Cùng.

Bản thân ông James chồng bà White – người má kề tay ấp, đồng đức tin với bà – còn liệt hẳn giáo lý ấy vào danh sách “những sai lạc căn bản” như sau:

‘Cùng trong nhóm những sai lạc căn bản,

chúng ta có thể xếp cùng với ngày Sa-bát giả này những sai lạc khác mà những người Cải Chánh Giáo Tin Lành đã mang từ nhà thờ Công Giáo ra,

như báp-tem bằng cách vẩy nước,

BA NGÔI,

sự tỉnh thức của người chết

và sự sống vĩnh cửu trong khổ sở.

Đám đông vẫn đang nắm những sai lạc căn bản này không nghi ngờ gì đã làm vậy một cách không cố ý;

nhưng liệu Hội Thánh của Đấng Christ có mang cùng mình những sai lạc này đến khi quang cảnh Ngày Phán Xét ập đến trên thế giới không?

Chúng tôi không nghĩ vậy.’

{James White – Review and Herald, 12/9/1854, 36.7}.

Bản thân bà White thì để lại những lời chứng hùng hồn không thể chối cãi:

‘Người nam Christ JESUS không phải là YHWH Đức Chúa Trời Toàn Năng.’

{Bản thảo (Manuscript) 140, 1903, khổ 28}

‘Trước toàn thể cư dân thiên đường, Hoàng Đế tuyên bố rằng

không ai ngoài Đấng Christ, Người Con Ruột Duy Nhất của Đức Chúa Trời, có thể hoàn toàn tiến vào các mục đích Ngài,

và Ngài Ấy được ủy thác thực thi những lời hùng mạnh của ý chỉ Ngài.’

{Các tộc trưởng và các tiên tri (Patriarchs and Prophets) 1890, 36.2}

‘Người Con Trai của Đức Chúa Trời nắm giữ thẩm quyền ngay dưới Đấng Ban Luật vĩ đại.’

{Linh Tiên Tri (Spirit of Prophecy) quyển 2, 9.1}

‘Sẽ là không an toàn khi nhận lấy linh từ một ai khác.

Chúng ta muốn Thánh Linh, chính là JESUS Christ.’

{Ellen G. White, lá thư 66, 1894, khổ 18}

‘Chúa đã cho tôi thấy rằng Satan đã từng là một thiên sứ được tôn kính trên thiên đường, ngay sau JESUS Christ.’

{Các ân tứ thuộc linh (Spiritual Gifts) quyển 1, 17.1}

Những lời chứng này không chỉ phủ nhận hoàn toàn sự tồn tại của một nhân vật thần thánh thứ ba ngoài Cha và Con,

mà còn chỉ rõ cho chúng ta thấy thứ tự về thẩm quyền và sức mạnh trên Thiên Đường trước khi tội lỗi xuất hiện.

Đứng đầu là Đức Chúa Trời, đứng thứ nhì là Người Con Trai Ruột Duy Nhất của Ngài, và đứng ngay thứ ba là Satan.

Lời chứng của Ellen G. White thẳng thừng vạch mặt danh tính của cái kẻ thứ ba không-phải-Đức-Chúa-Trời-cũng-không-phải-Con-Ngài mà cứ đòi tìm kiếm sự thờ phượng cho bản thân mình kia.

Và chúng ta biết cho đến nay có thể nói hắn đã thành công trên quy mô lớn bằng cách bóp méo cách hiểu đúng về “Thánh Linh” với giáo lý “Đức Chúa Trời Ba Ngôi” (Trinity).

Tham khảo “Cha, Con và Thánh Linh“.

Nhưng ngay sau khi thế hệ đầu tiên của hội thánh, và rồi bà White ra đi, giáo lý Ba Ngôi này đã tìm được đường vào hội thánh.

Đến năm 1946, một người tên là LeRoy E. Froom, tình nghi là gián điệp của Nhà Thờ Công Giáo La Mã Vatican,

thuộc hội đồng Jesuit

(đọc là Giê-zu-ít, tổ chức chuyên đào tạo gián điệp tôn giáo của Vatican để xâm nhập, tha hóa và thôn tính các hội thánh Tin Lành,

là tổ chức kẻ địch nguy hiểm nhất của phong trào Cải Chánh, xuất thân của giáo hoàng Francis đang trị vì Vatican ngày nay),

đã bỏ công ngồi đọc vô số trang bản thảo của bà White

và tìm ra một loạt các câu mà một khi được tách rời ra khỏi ngữ cảnh, gọt tỉa lại, có thể được sử dụng để truyền bá tà thuyết Ba Ngôi vào hội thánh SDA.

Người này, và rất nhiều người sau đó đã biên tập lại những câu trên thành các quyển sách mới “sử dụng lời nhà tiên tri Ellen G. White đã viết” để truyền bá giáo lý Ba Ngôi vào toàn bộ hội thánh SDA.

Những quyển sách được biên tập và/hoặc hiệu đính sau khi bà White đã chết này cực kỳ nguy hiểm, bởi không thể được tác giả xác nhận là có nói đúng ý của bà hay không,

trong khi vẫn mạo nhận uy tín của bà khiến cho dân sự tin sái cổ mà không hề kiểm tra lại kỹ.

Và thế là hội thánh SDA từ đó đã bị tiêm nhiễm tà thuyết ba ngôi này.

Khi còn sống, đã nhiều lần bà White đẩy lui được các đòn tấn công của giáo lý Ba Ngôi này và bảo vệ được hội thánh thành công,

điển hình là giai đoạn 1900-1905 khi bà ấy chống lại một phiên bản của nó trong quyển Đền Thờ Sống (The Living Temple) của một tay bác sĩ tên là Kellogg:

‘Trong sách Đền Thờ Sống được trình bày (giáo lý) An-pha của những tà thuyết chết người.

Ô-me-ga sẽ sớm theo ngay sau,

và sẽ được đón nhận bởi những kẻ không chịu nghe lời cảnh báo Đức Chúa Trời đã ban.’

{Các thông điệp chọn lọc (Selected Messages) quyển 1, trang 200, 1904}

Nhưng giờ khi không còn “lời chứng của JESUS” ở cùng nữa, hội thánh đã bị giáo lý Ba Ngôi dễ dàng xâm nhập,

đúng như những gì bà White tiên đoán và lo sợ trước khi mất vào năm 1915:

{Ellen G. White, Bản thảo (Manuscript) 1, 1915}

‘Tôi xin báo với các bạn, rằng khi tôi đã yên nghỉ, những thay đổi lớn sẽ xảy ra.

Tôi không biết khi nào thì tôi sẽ ra đi nữa, và tôi muốn cảnh báo tất cả khỏi mưu đồ của Ma Quỷ.

Tôi muốn dân sự hãy biết rõ rằng, tôi đã cảnh báo họ đầy đủ trước khi tôi chết.’

{Ellen G. White, Các thông điệp chọn lọc (Selected Messages) quyển 1, 204.2}

‘Kẻ thù của các linh hồn đã tìm cách để đem vào thứ giả định rằng một cuộc cải cách lớn sẽ xảy ra giữa những người Phục Lâm ngày-thứ-bảy,

và rằng cuộc cải cách này sẽ bao gồm việc TỪ BỎ NHỮNG GIÁO LÝ ĐÃ ĐỨNG VỮNG NHƯ NHỮNG TRỤ CỘT CỦA ĐỨC TIN CHÚNG TA,

và tham gia vào một quá trình tái cơ cấu.

Khi cuộc cải cách này xảy ra, kết quả sẽ là gì?

Những nguyên tắc chân lý mà Đức Chúa Trời trong sự khôn ngoan Ngài đã ban cho hội thánh tàn dư, sẽ bị gạt bỏ.

Tín ngưỡng của chúng ta sẽ bị thay đổi.

NHỮNG NGUYÊN TẮC NỀN TẢNG ĐÃ DUY TRÌ CÔNG VIỆC TRONG NĂM MƯƠI NĂM QUA SẼ BỊ COI LÀ SAI LẠC.

Một cơ cấu mới sẽ được thiết lập.

Những quyển sách của một trật tự mới sẽ được viết ra.

Một hệ thống triết lý tri thức sẽ được giới thiệu vào.

Những kẻ lập ra hệ thống này sẽ tiến vào các thành phố, và thực hiện một công việc phi thường.

Ngày Sa-bát, đương nhiên rồi, sẽ bị coi nhẹ, và cả vị Thần đã tạo ra nó.

Sẽ không có gì được phép đứng cản đường chiến dịch mới ấy.

Các lãnh đạo sẽ dạy rằng phẩm giá là tốt hơn gian ác,

nhưng khi Đức Chúa Trời đã bị loại bỏ rồi, họ sẽ đặt sự trông cậy vào sức lực loài người,

thứ mà, khi không có Đức Chúa Trời, là vô giá trị.

Nền móng của họ sẽ được xây trên cát,

BÃO TỐ SẼ QUÉT TAN CẢ TÒA NHÀ.’

Vậy là số phận của tổ chức dám coi “những nguyên tắc nền tảng đã duy trì công việc trong năm mươi năm qua” là “sai lạc

đã được tiên tri rõ ràng: “bão tố sẽ quét tan cả tòa nhà“.

Tức là hội thánh SDA Hiện Đại, trên quy mô tổ chức, sẽ không chịu được cải cách trở về với đức tin SDA Tiên Phong cùng những con chiên biết nghe và đi theo tiếng Chúa ở trong nó,

nhưng sẽ ương ngạnh đến cùng để rồi bị quét tan.

Đến ngày nay thì hẳn một bộ “28 giáo lý căn bản” đã được viết ra, trong đó có chứa giáo lý Ba Ngôi trên,

mà ai muốn gia nhập/ở lại hội thánh thì ở nhiều nơi bị bắt buộc phải tuyên xưng đức tin vào đó – một tác phẩm không hề được cảm thúc bởi Đức Chúa Trời.

Với động tác ấy, số người tin vào giáo lý Ba Ngôi càng lúc càng chuyển sang thành đa số áp đảo trong hội thánh.

{John Loughborough – một nhà Tiên Phong của hội thánh SDA – Review & Herald, 8/10/1861}

‘Bước đầu tiên của sự bội đạo là lập lên một tín điều, bảo chúng ta rằng chúng ta phải tin gì.

Bước thứ hai, là lập cái tín điều ấy trở thành một bài kiểm tra cho quyền thông công.

Thứ ba là kiểm tra các tín hữu bằng cái tín điều ấy.

Thứ tư là tuyên bố tất cả những ai không chịu tin cái tín điều ấy là bọn dị giáo.

Và thứ năm, là tiến hành công việc bắt bớ chống lại những người ấy.’

Việc tin nhận, bàn luận và truyền giảng chân lý để vạch mặt tà thuyết Ba Ngôi ngày nay còn bị coi là phá hoại hội thánh,

đặc biệt là bởi các chức sắc hội, với hình phạt đuổi khỏi hội thánh đã được áp dụng cho nhiều thành viên chính thức.

Bạn không tin chăng? Hãy click vào đây để xem mình cùng đứa con trai khi ấy mới 2 tuổi đã bị họ đuổi khỏi nhà hội ra sao

mà không cần có bất cứ phiên xét xử công khai nào để kết án được bất cứ tội danh gì, một sự vi phạm trắng trợn [04] Giăng 7:51

“Chẳng lẽ Luật Pháp của chúng ta kết án người ta nếu chưa nghe từ người trước và biết người đã làm gì à?”

Những tín hữu SDA nào bị lừa theo tà thuyết ba ngôi này – chiếm đa số – thì hợp thành nhánh Hiện Đại của hội thánh SDA, chi phối hội thánh trên quy mô tổ chức.

Còn những người SDA chân chính, kiên trung bám lấy các Chân Lý trụ cột đức tin mà Chúa đã ban cho các nhà Tiên Phong – chính là nhóm SDA nhánh Tiên Phong –

thì phát động một chiến dịch trong hội thánh chống lại tà thuyết ba ngôi này, kêu gọi trở về với Đức Chúa Trời Chân Chính Duy Nhất ([04] Giăng 17:3),

vâng giữ điều răn thứ nhất “chớ có thần khác trước mặt Ta” – điều răn thiết tưởng không hề kém quan trọng hơn so với điều răn thứ tư về ngày Sa-bát.

Đáng buồn là cũng như với mọi cuộc chiến khác để bảo vệ Chân Lý, phe của Chân Lý lại một lần nữa phải đứng ở vị trí thiểu số trên đất.

Sự chối bỏ vào năm 1888, thời điểm mà cơn “mưa cuối” đúng ra đã bắt đầu rơi xuống, vậy là đã trở thành cú ngã quyết định cho hội thánh SDA,

mà sau đó nó từ từ từng bước một trượt dốc, không tài nào gượng dậy nổi để tìm lại được chính mình như trước nữa.

Cùng một kiểu chối bỏ những đầy tớ mà Chúa sai đến này năm 1888 khi xưa, thì giờ cùng một kiểu ấy

lại tiếp tục được áp dụng cho những người được Ngài mở trí nhìn ra tà thuyết ba ngôi trong hội thánh và được Chúa sai đến để kêu gọi cải cách.

Những lời tiên báo của một nhà tiên tri thông thường có độ chính xác rất cao, gần như 100%.

Rất hiếm khi mới xảy ra trường hợp nào giống như nhà tiên tri Giô-na và dân Ni-ni-ve, khi Chúa đã phán điều gì qua nhà tiên tri của Ngài, nhưng rồi lại đổi ý

(Ngài đã tuyên bố qua Giô-na nhà tiên tri Ngài rằng Ngài sẽ hủy diệt Ni-ni-ve, nhưng rồi họ run rẩy và ăn năn trước lời rao giảng của đầy tớ Ngài, nên Ngài đổi ý và tha chết cho họ).

Ấy là vì một nguyên tắc mà Ngài đã nói rõ trong Kinh Thánh:

[24] Giê-rê-mi 18:7-10 Khi Ta phán về một nước hay về một vương quốc, để nhổ bật, và để triệt hạ, và để hủy phá, 

mà chính nước ấy – mà Ta đã phán về nó – quay khỏi điều ác mình,

thì Ta sẽ đổi ý về tai họa mà Ta đã định làm với nó. 

Và khi Ta phán về một nước hay về một vương quốc, để xây dựng và để vun trồng, 

mà nó làm điều ác trong mắt Ta để không nghe tiếng Ta,

thì Ta sẽ đổi ý về điều lành mà Ta đã phán sẽ làm lành cho nó.

Con người không thể thay đổi được ý định của Chúa dù bằng sức mạnh hay mưu mô,

nhưng bằng sự ăn năn, hoặc sự cứng tâm làm phản, thì lại hoàn toàn có thể.

Chúa đã vốn định tái lâm sớm đến mức một số tín hữu cùng thời bà White sẽ vẫn còn sống mà chứng kiến sự hiện đến của Ngài.

Về một cuộc hội nghị năm 1856, bà White đã từng cho biết thế này:

‘Tôi đã được chỉ cho về nhóm người đang có mặt tại Hội Nghị.

Vị thiên sứ bảo, “Vài người sẽ là thức ăn cho dòi, vài người sẽ là nạn nhân của bảy thảm họa cuối cùng,

vài người sẽ vẫn sống và còn lại trên đất để được cất lên vào sự tái lâm của JESUS.”‘

{Ellen G. White, Lời chứng cho hội thánh (Testimonies for the church) quyển 1, 131.3}

Thế nhưng sau vụ việc năm 1888, hội thánh SDA đã buộc Chúa phải trì hoãn ý định tốt đẹp mà Ngài vốn dành cho họ,

và từ đó đến nay vẫn đang phải tiếp tục lang thang trên hoang mạc khổng lồ này, chưa đến được Đất Hứa.

Hơn một thế kỷ sau sự kiện 1888, một thế hệ mới lại được Chúa dấy lên, thay cho thế hệ đã phụ lòng Ngài năm xưa.

Được tẩy sạch khỏi mọi tà thuyết, bao gồm cả tà thuyết ba ngôi, quân số của nhóm SDA Tiên Phong đã lại tiếp tục tăng trưởng trở lại, chuẩn bị cán mốc 144.000.

Và giờ đến lượt chúng ta chuẩn bị đứng trước những bài kiểm tra trọng đại như sự kiện 1888.

Và với việc rao giảng các chân lý vạch trần tà thuyết ba ngôi và vắc-xin Covid-19 cùng những sắc lệnh chuyên chế độc tài hủy hoại sức khỏe con người,

có thể nói rằng những bài kiểm tra ấy ĐÃ BẮT ĐẦU RỒI,

để xem xem những ai nhận ra được các sứ điệp chân lý Chúa đưa đến và sốt sắng đến giúp YHWH chống lại kẻ cường bạo, để thanh tẩy hàng ngũ của chúng ta khỏi những kẻ thiếu cam kết.

Liệu chúng ta lần này có nghe được tiếng Chúa và bước theo dẫn dắt của Ngài không hay sẽ chống nghịch lại sứ điệp Ngài đưa đến?

Liệu chúng ta có yêu thương, đoàn kết lại cùng nhau không, hay sẽ bận chia rẽ, đấu đá, tranh giành hư vinh và tư lợi?

Liệu chúng ta có để lòng tin cậy và trung thành với DUY NHẤT CHÚA không, hay sẽ trung thành với mục vụ A hoặc tin cậy vào vắc-xin B?

Liệu chúng ta có dũng cảm trỗi dậy, tỏa sáng, và trở thành thế hệ cuối cùng của lịch sử nhân loại, chứng kiến Đấng Christ tái lâm trên bầu trời,

hay sẽ phải nằm xuống, lần này thậm chí là còn trong sự hư mất, để những người khác được dấy lên thay thế chúng ta?

Điều đó sẽ phụ thuộc vào việc liệu chính chúng ta có là những Cơ Đốc nhân thực sự nghiêm túc, thực sự có Đấng Christ cư ngụ và làm chủ trong linh hồn mình hay không.

Không gì ngoài Chúa có thể hiệp nhất chúng ta lại trong Ngài, trong Sự Thật, trong Tình Yêu Thương.

Chúng ta sẽ buộc phải thực chất và cứng cựa, hoặc tiếp tục thất bại một cách chắc chắn như tất cả những thế hệ thất bại khác đã đi trước chúng ta mà thôi.

II. Đi khỏi thành phố dọn về vùng quê sống để chuẩn bị chống lại sắc lệnh cấm mua bán “Dấu của Con Thú”

và vai trò của các trang trại tự chủ lương thực trong việc đổ đủ quân số cho nhóm 144.000, kết thúc thế giới.

{Ellen G. White, Mái Ấm Phục Lâm (Adventist Home), 141.4}

‘Hết lần này đến lần kia Chúa đã truyền rằng dân sự chúng ta hãy đem gia đình mình đi khỏi các thành phố, về các vùng quê, nơi họ có thể TỰ TRỒNG LƯƠNG THỰC CỦA MÌNH;

vì trong tương lai VẤN ĐỀ MUA VÀ BÁN SẼ LÀ MỘT ĐIỀU NGHIÊM TRỌNG.

Bây giờ chúng ta nên bắt đầu nghe theo chỉ dẫn đã được ban đi ban lại cho chúng ta:

Hãy ra khỏi các thành phố về các khu vực nông thôn, nơi nhà cửa không bị dồn sát lại vào nhau, và nơi các con sẽ được tự do khỏi các trò nhũng nhiễu của các kẻ địch.’

Trước khi sắc lệnh “Dấu của Con Thú” được đẩy lên thành án tử hình dành cho những ai không chịu khuất phục Con Thú mà vi phạm mạng lệnh của Đức Chúa Trời,

sẽ có một khoảng thời gian đáng kể mà án phạt chỉ đơn thuần là cấm mua bán mà thôi.

Trong khoảng thời gian này, việc có được cơ sở vật chất cần thiết,

với một không gian đủ riêng tư, không có căn nhà hàng xóm nào liền kề khiến kẻ khác không thể dòm ngó do thám được sẽ là rất quan trọng cho các thánh đồ,

để họ có thể vẫn tồn tại được và tiếp tục rao giảng chân lý chống lại cái sắc lệnh ép buộc con người phạm tội với Đức Chúa Trời này,

và không chỉ thế, tiếp rước những ai vì tiếp nhận Chân Lý mà bị bắt bớ và đẩy vào đường cùng.

Không nghi ngờ gì, những tín hữu như thế sẽ được Chúa đưa đến những thánh đồ nhờ được tiếp cận sớm với Chân Lý, đã có thể chuẩn bị xong được cơ sở vật chất của mình từ trước – chúng ta.

Và khi mà thời giờ ăn năn sẽ chỉ khép lại để Chúa tái lâm khi nhóm 144.000 đã được đổ đủ quân số, như đã trình bày trong câu 9 bài học này,

chúng ta phải hiểu rằng mình cũng cần các anh em ấy để đổ đủ nhóm 144.000 không kém gì họ cần chúng ta để được cứu mạng cả.

Khi đưa ra lựa chọn tiếp nhận ngày Sa-bát để trung thành với Chúa đến cùng, họ vẫn đang ở trong tình trạng chưa được tẩy sạch khỏi mọi tà thuyết.

Nếu chúng ta tiếp rước và nâng cấp được họ lên thành thành viên của nhóm 144.000 trước khi bọn gian ác giết được họ, chúng ta sẽ đẩy nhanh được ngày tái lâm của Đấng Christ.

Còn nếu phe địch giết được họ trước, chúng sẽ trì hoãn được ngày hiện đến của Ngài để có thêm thời gian bắt bớ và làm suy giảm quân số của chúng ta.

Đây đơn thuần là một cuộc chạy đua. Chúng ta chạy đua để cứu họ và kết thúc thế giới. Còn phe địch thì chạy đua để giết họ và trì hoãn ngày tái lâm của Chúa JESUS.

Chính vì vậy, các trang trại tự chủ lương thực càng trở nên vô cùng thiết yếu đối với chúng ta trong những ngày cuối cùng.

Chúng chính là công cụ để chúng ta cứu mạng được các anh em này, và qua đó tiếp cận được và bổ sung cho họ những chân lý còn thiếu, thêm họ vào nhóm 144.000.

Việc chúng ta sở hữu đủ trang trại có thể làm nên sự khác biệt giữa việc chúng ta có thể vào được đến Đất Hứa chỉ sau vài năm,

với việc phải mất thậm chí đến 40 NĂM như dân Is-ra-ên khi xưa, lang thang trên cái hoang mạc của sự bắt bớ khủng khiếp này dưới sắc lệnh Dấu của Con Thú, mới đến ngày gom được đủ quân số mà đón Chúa tái lâm.

Và tin tôi đi: bạn sẽ muốn Chúa tái lâm càng sớm càng tốt để sớm được thoát khỏi sự bắt bớ tàn bạo của phe địch, một khi sắc lệnh Dấu của Con Thú đã được ban hành, chứ không muốn chịu đựng sự giày đạp của chúng trong 40 năm đâu!

Chưa hết, những ai vào thời điểm sắc lệnh cấm mua bán “Dấu của Con Thú” được ban hành mà đã tự chủ được về lương thực, nước sạch, y phục, năng lượng…

sẽ ở trong điều kiện tốt hơn rất nhiều để chống lại sắc lệnh ấy và giúp đỡ những người khác.

Còn những ai đã có cơ hội nhưng không chịu tiến hành chuẩn bị, khi ấy sẽ phải đứng trước áp lực mạnh khủng khiếp,

cám dỗ mình hãy phản bội lại Chúa, từ bỏ mạng lệnh của Ngài để giữ lấy mạng sống cho mình và cho các con mình.

{Ellen G. White, Các Tiên Tri và Các Vua (Prophets and Kings), 184.2}

‘Luật lệ của loài người sẽ được làm cho quá đỗi nghiêm ngặt

đến mức đàn ông đàn bà sẽ không dám tuân giữ ngày thứ bảy Sa-bát nữa.

VÌ LO SỢ THIẾU THỐN ĐỒ ĂN VÀ ĐỒ MẶC,

họ sẽ hiệp với thế gian trong việc vi phạm luật pháp của Đức Chúa Trời.’

Việc phải chứng kiến con cái chết đói ngay trước mắt,

kể cả với những người đủ trung thành với Chúa để sẵn sàng trả cái giá này, cũng vẫn cứ là một trải nghiệm không hề dễ chịu đâu.

Và nó đúng ra là đã có thể tránh được nếu đơn thuần nghe theo lời Chúa ban qua nhà tiên tri của Ngài mà chuẩn bị ngay từ bây giờ.

{Ellen G. White, Mái Ấm Phục Lâm (Adventist Home), 139.4}

‘Thời khắc ĐÃ ĐẾN khi mà, CÙNG VỚI VIỆC ĐỨC CHÚA TRỜI MỞ LỐI, các gia đình nên di chuyển khỏi các thành phố.

Những đứa trẻ nên được đưa về vùng quê.

Các cha mẹ nên tìm một nơi phù hợp nhất với điều kiện vật chất của họ cho phép.

Dù nơi ở có thể nhỏ, nhưng hãy nên có đất đai có thể trồng trọt được liền kề với nó.’

Việc trồng trọt các cây lương thực, xây dựng nhà cửa, trả trước xong xuôi điện thoại và internet,

thiết lập hệ thống nước sạch (như khoan giếng, khai thác nước mưa hay nước suối), hệ thống điện năng (điện gió, điện mặt trời hay thủy điện),

nhìn chung là chuẩn bị xong xuôi cơ sở vật chất cho phép một thánh đồ có thể tồn tại độc lập không cần mua bán gì với thế gian bên ngoài,

là công việc cần rất nhiều thời gian để học biết, thực hành và hoàn tất, thậm chí cần đến nhiều năm trời.

Trong thời điểm mà sắc lệnh này đã chín muồi đến mức có thể được ban ra bất cứ lúc nào rồi, việc chuẩn bị cần phải bắt đầu được tiến hành ngay khi Đức Chúa Trời mở đường.

{Ellen G. White, Đời Sống Thôn Quê (Country Living), 6.7}

‘Cùng một tiếng phán đã cảnh báo Lót hãy rời khỏi Sô-đôm bảo chúng ta,

“Hãy ra khỏi bọn chúng, và hãy tách biệt mình ra, … và chớ đụng vào những thứ ô uế.”

Những ai vâng phục lời cảnh báo này SẼ TÌM ĐƯỢC MỘT NƠI TRÚ ẨN.

Mỗi người hãy thật tỉnh thức cho chính mình, và nỗ lực CỨU LẤY GIA ĐÌNH MÌNH.

Người ấy hãy thắt lưng mình cho công việc ấy.

ĐỨC CHÚA TRỜI SẼ BÀY TỎ TỪNG BƯỚC MỘT PHẢI LÀM GÌ TIẾP THEO.’

Chính Chúa sẽ dẫn dắt, cầm tay chỉ việc từng bước một cho người nào sẵn lòng làm theo ý muốn Ngài.

Cho nên quan trọng nhất vẫn là duy trì mối quan hệ cá nhân trực tiếp với Chúa và để ý những dẫn dắt mở lối của Ngài.

{Ellen G. White, Đời Sống Thôn Quê (Country Living), 24.3}

‘Các cha mẹ có thể lấy được những mái nhà nhỏ ở miền quê, với đất đai để trồng trọt, nơi họ có thể có các vườn cây và nơi họ có thể trồng được rau củ và quả nhỏ…

Ở những nơi như vậy bọn trẻ sẽ không bị bao vây bởi những ảnh hưởng suy đồi của đời sống thành thị.

ĐỨC CHÚA TRỜI SẼ GIÚP DÂN NGÀI TÌM ĐƯỢC NHỮNG MÁI NHÀ NHƯ VẬY Ở NGOÀI CÁC THÀNH PHỐ.’

Một câu hỏi được dấy lên: thế còn khoảng thời kỳ ngặt nghèo khi thời gian ăn năn đã khép lại,

bảy thảm họa cuối cùng đang được đổ xuống trên đất,

và chúng ta bị buộc phải bỏ chạy khỏi các trang trại tự chủ lương thực của mình trước sự truy đuổi của bọn gian ác?

{Ellen G. White, Các tộc trưởng và các tiên tri (Patriarchs and Prophets) 201.2}

‘Khi Đấng Christ sẽ NGỪNG CÔNG VIỆC TRUNG BẢO CỦA NGÀI cho loài người, bấy giờ THỜI KỲ NGẶT NGHÈO NÀY SẼ BẮT ĐẦU.’

{Ellen G. White, Tư vấn cho Hội thánh (Counsels for the Church), 281.4}

‘Chúa đã nhiều lần bày tỏ cho tôi, rằng sẽ là trái với Kinh Thánh

khi chuẩn bị bất cứ nhu yếu phẩm nào cho những nhu cầu tạm của chúng ta TRONG THỜI KỲ NGẶT NGHÈO.

Tôi đã thấy rằng nếu các thánh đồ tích trữ lương thực bên mình hay ở ngoài đồng trong thời kỳ ngặt nghèo,

khi gươm đao, đói kém, và dịch bệnh đang ở trong xứ,

nó sẽ bị cướp đoạt khỏi họ bởi những bàn tay bạo lực và những người lạ sẽ gặt ruộng của họ.

Bấy giờ sẽ là lúc để chúng ta tin cậy hoàn toàn vào Đức Chúa Trời, và Ngài sẽ chu cấp cho chúng ta.

Tôi đã thấy rằng BÁNH VÀ NƯỚC CỦA CHÚNG TA SẼ ĐƯỢC ĐẢM BẢO VÀO LÚC ĐÓ,

và rằng chúng ta sẽ không thiếu thốn hay bị đói; vì Đức Chúa Trời có thể dọn bàn cho chúng ta trong đồng hoang.

Nếu cần Ngài sẽ sai quạ đến cho chúng ta ăn, như Ngài đã cho Ê-li-gia ăn, hoặc mưa ma-na xuống từ trời, như Ngài đã làm cho dân Is-ra-ên.’

Khi chúng ta buộc phải bỏ chạy khỏi các trang trại của mình,

BÁNH VÀ NƯỚC sẽ được chu cấp cho chúng ta từ Chúa. Không có thịt.

Khi ấy hãy nhớ cảm tạ Ngài về lương thực Ngài chu cấp,

thay vì phàn nàn về nó một cách vô ơn vì sự đạm bạc của nó,

như dân Is-ra-ên khi xưa dã phàn nàn về cái bánh ma-na đạm bạc nhưng CỰC KỲ BỔ DƯỠNG

mà Chúa đã ban cho họ ăn và khỏe mạnh trong suốt 40 NĂM trong đồng hoang mà không cần thêm thức ăn gì khác.

Còn bây giờ, hãy xây dựng trang trại tự chủ lương thực của mình đi.

Bạn sẽ cần nó cho đến khi thời gian ăn năn của nhân loại khép lại đấy.

Ellen White thỉnh thoảng có sử dụng cụm từ “thời kỳ ngặt nghèo”

để chỉ toàn bộ khoảng thời gian từ khi sắc lệnh cấm mua bán được ban hành cho đến ngày Chúa tái lâm,

chứ không chỉ sử dụng nó để chỉ riêng về khoảng thời gian cuối cùng sau khi thời gian ăn năn của nhân loại khép lại,

nên nhiều người đọc trích dẫn này của bà ấy hay bị nhầm tưởng là Đức Chúa Trời sẽ chu cấp cho họ bánh và nước một cách thần kỳ từ rất sớm,

ngay từ khi Dấu của Con Thú được ban hành rồi, chứ không phải chờ đến tận khi bảy thảm họa cuối cùng bắt đầu rơi xuống,

và họ không cần chuẩn bị trang trại tự chủ lương thực của mình.

Quan điểm này mâu thuẫn hoàn toàn với vô số trích dẫn mà bà White đã thúc giục dân sự của Đức Chúa Trời

hãy rời khỏi các thành phố, về các miền quê và chuẩn bị các trang trại tự chủ lương thực cho mình,

“vì trong tương lai VẤN ĐỀ MUA VÀ BÁN SẼ LÀ MỘT ĐIỀU NGHIÊM TRỌNG.”

Hiểu lầm lớn sẽ dẫn đến sự tử đạo của vô số thánh đồ, phải chết đói chết khát ngoài đầu đường xó chợ đấy. Cẩn thận.

III. Phim tài liệu Back to Eden (trở về Ê-đen) – Làm thế nào để trồng một khu vườn Organic tự tái tạo.

? Với việc ban hành Dấu của Con Thú, cấm mua và bán đối với tất cả các Cơ Đốc nhân trung tín vâng giữ các mạng lệnh của Đức Chúa Trời,

một mặc khải không thể đúng lúc hơn đã được ban đến bởi Ngài.

Tri thức này đã đến trong một ngày mà nhà làm vườn Paul Gautschi đến hỏi Chúa vì sao rừng cây không có bàn tay con người nào chăm sóc, thì lại là thứ đất đai màu mỡ nhất,

còn khu vườn của ông, ngay cả khi ông đã làm việc rất chăm chỉ, vẫn thua kém về mọi mặt.

? Phương pháp làm vườn không-cày-xới mà Đức Chúa Trời bày tỏ cho Paul, về sau được gọi là phương pháp làm vườn “back to Eden” (trở về Eden),

sẽ cho thấy thể nào lời của Đấng Christ “ách Ta dễ dàng và gánh Ta nhẹ nhàng” trong [01] Ma-thi-ơ 11:30 áp dụng trong lĩnh vực nông nghiệp,

và sẽ cho phép bất cứ người mới toe chưa có tí kiến thức làm nông nào có thể, với một mảnh đất nhỏ, dễ dàng đối mặt được với việc không mua được lương thực gây ra bởi Dấu của Con Thú.

Bản thân đã là một người chưa biết giữ ngày Sa-bát khi làm bộ phim này, có lẽ chính Paul Gautschi khi ấy cũng khó có thể tưởng tượng được rằng

tri thức mà Chúa đã mặc khải cho ông lại đóng một vai trò quan trọng đến vậy trong sự phục vụ các thánh đồ được chọn cho trận chiến cuối cùng.

Giờ thì ông cũng đã tiếp nhận ngày Sa-bát, và đã làm hẳn video tuyên xưng điều đó.

? Để bật phụ đề, bấm vào ký hiệu [CC] trên video YouTube, rồi bấm vào hình bánh răng và ở mục Subtitles/CC, chọn ngôn ngữ mình muốn.

Các chỉ dẫn bổ sung chi tiết được để phía dưới video.

Nào, phương pháp “trở về Ê-đen” là rất hay rất tốt,

nhưng nó có một bất lợi lớn: nó đòi hỏi thời gian.

Lớp phủ gỗ vụn có thể sớm bắt đầu có tác dụng với những cây trồng nhỏ như rau củ hoặc các cây bụi nhỏ.

Nhưng những cây ăn quả to, với rễ lớn cắm sâu, rõ ràng sẽ ưa thích đất đã được phủ mùn một thời gian dài, như trong rừng vậy.

Với những khu vườn mới, ngay cả khi chúng ta bắt đầu phủ mùn ngay lập tức,

cũng sẽ phải mất ít nhất 7-10 năm để lớp phủ gỗ vụn cải thiện được đất đủ sâu

để đạt đến điều kiện trồng lý tưởng cho cây ăn quả.

Và với việc ban hành Dấu của Con Thú, thời gian là một thứ xa xỉ phẩm mà chúng ta không có.

Thật may, Chúa đã hướng dẫn cho nhà tiên tri của Ngài cách trồng cây ăn quả qua một khải tượng,

người tuy đã không hề chép nó xuống, nhưng đã truyền lại nó cho cháu trai mình.

Người cũng đã không hề chép nó xuống, nhưng đã truyền lại nó cho một cậu bé 13 tuổi.

Cậu bé đó lớn lên và trở thành một nhà làm vườn,

và khi đã về già, đã truyền lại nó cho một nhà truyền đạo trẻ tuổi.

Và nhà truyền đạo trẻ tuổi đó, bởi sự sắp xếp kỳ diệu của Đức Chúa Trời, chính là… tôi,

biên tập viên của bộ Tiên Tri Toàn Thư mà bạn đã nghiên cứu bấy lâu.

Cây trồng bởi phương pháp này cao và to hơn khoảng 2,5 – 2,7 lần

so với những cái cây được trồng cùng một lúc theo phương pháp tiêu chuẩn được khuyến nghị bởi Cục Lâm Nghiệp Mỹ,

tức là gấp khoảng 20 LẦN về mặt thể tích kích thước!

Và tôi đang chia sẻ nó lại cho những người cũng đang chuẩn bị để chống lại sắc lệnh Dấu của Con Thú.

Nếu bạn muốn nhận nó, hãy nhắn cho tôi vào facebook:

https://www.facebook.com/kieuquochung/

Khi đã tiến xa đến tận đây, bạn hẳn cũng đã nắm được cả danh tính của nhóm 144.000,

nhận thức rõ ràng được vai trò quan trọng của họ trong kế hoạch của Đức Chúa Trời cho những ngày cuối cùng,

và đã sẵn sàng để tăng trưởng thành một thành viên hùng mạnh đầy rẫy Thánh Linh của đoàn quân này

qua việc học biết và áp dụng nếp sống tin kính thực tiễn của họ.

Nếp sống tin kính thực tiễn không phải là một danh sách các luật lệ hay giáo lễ đơn thuần;

nó là một LỐI SỐNG sẽ căn chỉnh hành vi của chúng ta phù hợp đúng theo đức tin của chúng ta.

Điều này càng đặc biệt đúng đối với nhóm 144.000, khi mà lối sống của chúng ta đã được đặc biệt kiến tạo để làm ra,

không phải những Cơ Đốc nhân tự xưng tầm thường, nhưng những người sẽ có thể đủ sẵn sàng để nhận lãnh báp-tem Thánh Linh trong quyền năng,

và được sử dụng bởi Chúa để thực sự đem được ngày tái lâm của Đấng Christ đến trên thế giới này.

Hãy click “bài tiếp” để chuẩn bị mình sẵn sàng cho sự kêu gọi của Đức Chúa Trời.

Vẫn chưa có bộ Tiên Tri Toàn Thư trong tay?

Lấy về trọn bộ Tiên Tri Toàn Thư MIỄN PHÍ tại đây »